Nguyễn Văn Lục
Trước những biểu dương quân sự và những lời công bố có tính cách “cảnh báo” trên biển Đông của Trung Quốc trong những ngày gần đây, các quốc gia trong vùng đang lo ngai. Nhất là các quốc gia Châu Á lục địa có biên giới đất liền với Trung Quốc. Thứ đến là các quốc gia mà có nhiều người gốc Tàu cư ngụ làm ăn.
Nhưng kẻ lo ngại nhất vẫn là Việt Nam. Bởi vì Trung Quốc có thể tự coi mình là NATO phương Đông và coi Việt Nam trở thành Cuba phương Đông. Việt Nam bị du vào cái thế tiền đồn, đứng mũi chịu sào mỗi khi có khủng hoảng chính trị.
Thực tế,VN có đủ thứ để lo ngại. Lo ngại vì có biên giới đất liền và biên giới biển với Trung Quốc. Chưa kể có hàng ngàn năm lịch sử chung và nửa thế kỷ là đồng chí “môi hở răng lạnh”. Trong quá khứ, mối giao hảo giữa VN và Trung Quốc không lành mạnh. Lúc nào cũng ở thế nước mạnh-nước chư hầu. Trong 1000 năm độc lập của VN, 5 lần Trung Quốc xua quân sang Việt Nam. Không kể một lần quân Mông Cổ làm chủ Trung Hoa cũng xua quân sang đánh VN. Dù sao những cuộc chinh phạt ấy cũng chỉ đòi hỏi có một điều là: ý chí thần phục bằng cách Triều cống. Mất mát của ta cùng lắm là cái thể diện.
Cái lần thứ năm vào năm 1979, Trung Quốc cũng chỉ muốn dạy cho VN một bài học “luân lý” là phải biết “nhớ ơn”. Còn phía VN thì gọi đó là bọn “ Bành trướng Bắc Kinh.”
Nhưng nay nếu có chiến tranh thì đã hẳn không phải như vậy nữa.
“Hiểm họa dân số”
Trong số gần một tỉ rưỡi người Trung Hoa hiện nay, có khoảng 10% dân số người Hoa ở các nước Đông Nam Á. Nhưng lại chiếm đến 80% tài sản của các nước ấy. Ở đây không kể đến người Tàu Đài Loan và Hồng Kông. Cũng không muốn nói tới tình trạng xâm lăng bằng đồng hóa chủng tộc như hiện nay ở Tây Tạng. Có nơi thì tỉ lệ ấy lên đến 25%. Nhưng có trường hợp như Singapore, 90% dân số ở Singapore là người gốc Hoa. Những người gốc Hoa ấy lại giàu và mạnh. Đã có một tổng thống Mỹ da đen, đến một lúc nào, ai có thể nói trước là có một tổng thống người gốc Hoa ở Indonésia, Malaysia, Thái Lan?
Bình thường thì không sao cả. Nhưng hễ có chuyện thì những người Hoa ấy sẽ ngả về phía nào? Đó là trường hợp không ngoại lệ đã xảy ra cho VN vào năm 1979. Trước 1975, có 200. 000 người Hoa ở phía Bắc và 1.200.000 ở phía Nam là có vấn đề chứ không phải là không có. Trong cuộc chiến tranh biên giới. Phiá VN cũng bắt được một văn kiện tuyệt mật của Quân Ủy Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc do tên Lê Xuân Thành, sinh 1949, tại Quảng, Đông Trung Quốc cung khai. Trong văn kiện có đoạn như sau:
“Nước ta và nhân dân Việt-Nam có mối hận thù dân tộc hàng ngàn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yêu nước, nhờ đó có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài, chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta. ”
1/ Toàn thể Hoa Kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí để đối phó với hoàn cảnh đặc biệt. 2/ Phải chú ý theo dõi đài phát thanh của Tổ Quốc. 3/ Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước. 4/ Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xin xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân.
Chính phủ Trung Quốc đã dùng vấn đề người Hoa để chống VN từ bên trong. Lãnh đạo Trung Quốc coi người Hoa ở VN là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Họ đã tổ chức màng lưới gián điệp người Hoa trên đất VN. Họ cũng đã phát động phong trào trở về Trung Quốc hàng loạt.
Phải nhìn nhận, đây là một hiểm họa tiềm ẩn. Người Hoa tại nước ngoài cũng như ở VN trở thành đạo quân thứ năm của Trung Quốc nhằm phá rối VN.
Hiểm họa về mối liên hệ Đồng chí-Kẻ thù
Nếu không nhờ vả, nếu không lệ thuộc, nếu không là đồng chí, mối giao hảo giữa hai bên có thể quân bình hơn. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, cộng sản VN hiểu rõ cái thế và vai trò của họ giữa hai nước đàn anh lớn. Có lẽ chỉ mình Hồ Chí Minh đóng trọn vẹn vai trò đi dây này, cố gắng giữ được thế quân bằng quyền lực giữa Liên Xô và Trung Quốc.
La Quý Ba Nguồn: Xinhua news Agency |
‒ Tháng 1-1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp…
‒ Bước đầu tiên viện trợ VN là để khai thông giao thông biên giới Trung Việt, vì có thể vật tư viện trợ mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi.
‒ Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14/10/1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông:
“Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Thất Khê-Cao Bằng (Chỉ chiến dịch biên giới). Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng cộng sản Liên Xô... Tóm lại tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông, cách mạng quốc tế chủ nghĩa.”
Trong những bài viết khác của Trương Quảng Hoa, ông ta kê khai từng chi tiết một về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho VN đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Chỉ nhắc lại một điều thôi. phái đoàn Phạm Văn Đồng đi phó hội Geneva gồm 30 người đến Bắc kinh. Bọn họ không có ai có lấy một bộ áo veste. Trung Quốc đã may cho mỗi người hai bộ veste để đi phó hội Geneva.
Phạm Văn Đồng mặc veston của Tàu đi máy bay của Nga từ Moscow đến dự Hội nghị Geneva - Đứng giữa Andrei Gromyko và Zhou Enlai Nguồn: © Bettmann/CORBIS |
Lệ thuộc đến thế thì thôi nên không lạ gì các quyết định quan trọng đều do Chu Ân Lai đề xướng ra cả (Đọc thêm tài liệu: Chu Ân Lai và Hội Nghị Geneva của Tiền Giang (Qian Jiang, Zhou Enlai yu Rineiwa huiyi [Zhou Enlai and the Geneva Conference] - DCVOnline), người dịch Trần Thu Minh. Người hiệu đính: Dương Danh Dy, do Trung Cộng Đảng xứ xuất bản xã, 2005, tài liệu tham khảo nội bộ).
‒ Trong đại hội lần thứ hai của Đảng, người ta còn ghi lại được những đoạn như sau:
“Đảng Lao động Việt Nam lấy học thuyết của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng VN làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam của tất cả mọi hành động. Có thể nói đó là sự thể hiện tình hữu nghị chiến đấu khắng khít giữa hai nước Việt-Trung như môi với răng.”
“Đảng Lao động VN nguyện noi gương anh dũng đảng cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường Đôc lập và tự chủ”.
‒ Ngay cả võ Nguyên Giáp khi còn ở bên Tàu cũng cắp sách đi học người Tàu ở học viện Mác Xít do người Tàu truyền thu. Điều này, ông không hề tiết lộ ra trong các sách của ông. Nhưng chắc là ông có kể lại cho tác giả người Mỹ, Peter Mcdonald, người được độc quyền phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Peter Macdonald viết lại như sau:
“Because of his lack of formal training, it was Ho Chi Minh’s intention that Giap should study at the Institute of Marxism-Leninism in Yenan in China, but two weeks after he set off to go there, in June 1940, the Germans captured Paris...”
“With Phạm Văn Đồng, he went to Chinghi in China. There, Giap-whose alias at the time was Duong Huai-nan learned to speak and write Chinese and also studied the strategy and tactics of the communist Chinese army, putting what he learned into print in a pamphlet called “Chinese Military Affairs”
Nguồn: Giáp, By Peter G. Macdonald |
Mặc dầu được sự giúp đỡ tối đa, vô điều kiện của Mao Trạch Đông, trong sách của ông Võ Nguyên Giáp như cuốn: Đường Tới Điện Biên hay: Điện Biên Phủ-Điểm Hẹn Lịch Sử, tướng Giáp thường né tránh khéo léo những trợ giúp của Mao Trạch Đông. Cũng vậy, ba cuốn: Điện Biên Phủ, Qua Những Trang Hồi Ức, Các Sĩ Quan đã từng tham dự chiến trận Điện Biên Phủ hầu như không một ai nhắc xa gần đến sự tiếp viện quân sự vô điều kiện và không hoàn lại của cộng sản Tàu.
Phải chăng, đây là một trong những nguyên cớ làm Trung Quốc bực bội về sự “vô ơn” và phản bội về phía Việt Nam? Và phải chăng cũng vì thế, nay tài liệu sử liệu của Trung Cộng cố tình bạch hóa công khai sự giúp đỡ này?
Sau đó, mối liên hệ đồng chí anh-em với Trung Quốc trở nên lạnh nhạt và căng thẳng nhất là khi Lê Duẩn ngả theo Liên Xô, ký thông cáo chung năm 1964. Lê Duẩn kéo theo một đám đồng chí có luận điệu chống Trung Quốc trong ngành Tuyên Huấn như Tố Hữu, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng. Trong ngành ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch. Trong quân đội có Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh. Trong ngành Công an như Trần Quốc Hoàn, Trong Viện Kiểm sát như Hoàng Quốc Việt. Và quan trọng nhất và đáng tin câỵ nhất là Lê Đức Thọ, Trưởng Ban tổ chức Trung Ương đảng.
Sự trả đũa của Trung Quốc
Năm 1974, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của miền Nam. Hà Nội đành im lặng, nhưng không phải là chấp nhận hay đống ý. Mối nghi ngờ giữa hai bên thêm trầm trọng.
Nhưng Trung Quốc khó có thể chấp nhận việc VN ngả theo Lỉên Xô. Nhất là kể từ khi Liên Xô viện trợ ồ ạt xe tăng, võ khí, đạn dược cho cuộc xâm chiếm miền Nam. Vì thế, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với các nhà báo ở Bắc Kinh như sau: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt Nam, miễn là 30% dành cho Trung Quốc.”
Càng ngày mối liên lạc hai bên càng xấu đi. Ngay khi Sài Gòn vừa mất sau ngày 30/04/1975, nòng súng bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì ngày 04/05, quân đội Pol Pot xua quân chiếm đảo Phú Quốc, ngày 08/05 đột nhập vào Tây Ninh, ngày 10/05, chiếm đảo Thổ Châu. Quân đội Bắc Việt được lệnh quay nòng súng về phía Cam pu Chia. Đằng sau Cam Pu Chia có sự yểm trợ quân sự của Trung Quốc và Thái Lan. Sau này vào ngày 31/07/1978,ông Hua Guofeng (Hoa Quốc Phong) nói: “Cuộc chiến đấu của nhân dân Kam-Pu-Chia là chính đáng và cuối cùng nhân dân Kam-pu-chia sẽ chiến thắng, chúng tôi ủng hộ nhân dân Kam-pu-Chia.”
Hầu như toàn thể nhân dân miền Nam sau 30/04/1975 đều không hề hay biết có một cuộc chiến tranh ở biên giới phía tây VN.
Hà Nội đã dấu kín việc này.
Thật sự là đánh nhau với Pol-Pot, nhưng gián tiếp là đánh nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tình hình giữa hai bên càng căng thẳng. Ngay từ 1975, Trung Quốc cắt các khoản viện trợ không hoàn lại. Ngưng các công trình xây dựng như cầu cống, đường lộ. Nhất là kể từ năm 1978, cắt các khoản viện trợ về trang thiết bi. Trả về các sinh viên đang theo học ở bên Tàu. Ngày 22-12-1978,cắt đường xe lửa nối liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuối cùng, đóng cửa toà Lãnh sự VN tại Quảng Châu. Gọi đại sứ Tàu về nước.
Và rồi việc phải đến đã đến. 1979, Trung Quốc xua quân sang xâm chiếm biên giới VN, ngay sau khi Đặng Tiểu Bình từ Washington trở về, để dạy cho VN một bài học. Phải chăng đó là bài học phải biết ơn và không được phản bội?
Câu nói của Hồ Chí Minh thật là vô nghĩa trong lúc này: “Việt-Trung hai nước thắm tình hữu nghị, vừa là bạn bè, vừa là đống chí. ” Nay thì phải thêm vào cho đủ nghĩa: Vừa là kẻ thù.
Có lẽ người hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc chiến Trung-Việt vẫn là Mỹ, vì họ phá vỡ được khối Liên Minh Cộng Sản Châu Á mà không tốn một viên đạn.
(Còn tiếp)