Hãy can đảm định hướng ra biển (I)




Nguyễn Văn Lục

DCVOnline.net

Trước những biểu dương quân sự và những lời công bố có tính cách “cảnh báo” trên biển Đông của Trung Quốc trong những ngày gần đây, các quốc gia trong vùng đang lo ngai. Nhất là các quốc gia Châu Á lục địa có biên giới đất liền với Trung Quốc. Thứ đến là các quốc gia mà có nhiều người gốc Tàu cư ngụ làm ăn.

Nhưng kẻ lo ngại nhất vẫn là Việt Nam. Bởi vì Trung Quốc có thể tự coi mình là NATO phương Đông và coi Việt Nam trở thành Cuba phương Đông. Việt Nam bị du vào cái thế tiền đồn, đứng mũi chịu sào mỗi khi có khủng hoảng chính trị.

Thực tế,VN có đủ thứ để lo ngại. Lo ngại vì có biên giới đất liền và biên giới biển với Trung Quốc. Chưa kể có hàng ngàn năm lịch sử chung và nửa thế kỷ là đồng chí “môi hở răng lạnh”. Trong quá khứ, mối giao hảo giữa VN và Trung Quốc không lành mạnh. Lúc nào cũng ở thế nước mạnh-nước chư hầu. Trong 1000 năm độc lập của VN, 5 lần Trung Quốc xua quân sang Việt Nam. Không kể một lần quân Mông Cổ làm chủ Trung Hoa cũng xua quân sang đánh VN. Dù sao những cuộc chinh phạt ấy cũng chỉ đòi hỏi có một điều là: ý chí thần phục bằng cách Triều cống. Mất mát của ta cùng lắm là cái thể diện.

Cái lần thứ năm vào năm 1979, Trung Quốc cũng chỉ muốn dạy cho VN một bài học “luân lý” là phải biết “nhớ ơn”. Còn phía VN thì gọi đó là bọn “ Bành trướng Bắc Kinh.”

Nhưng nay nếu có chiến tranh thì đã hẳn không phải như vậy nữa.

“Hiểm họa dân số”

Trong số gần một tỉ rưỡi người Trung Hoa hiện nay, có khoảng 10% dân số người Hoa ở các nước Đông Nam Á. Nhưng lại chiếm đến 80% tài sản của các nước ấy. Ở đây không kể đến người Tàu Đài Loan và Hồng Kông. Cũng không muốn nói tới tình trạng xâm lăng bằng đồng hóa chủng tộc như hiện nay ở Tây Tạng. Có nơi thì tỉ lệ ấy lên đến 25%. Nhưng có trường hợp như Singapore, 90% dân số ở Singapore là người gốc Hoa. Những người gốc Hoa ấy lại giàu và mạnh. Đã có một tổng thống Mỹ da đen, đến một lúc nào, ai có thể nói trước là có một tổng thống người gốc Hoa ở Indonésia, Malaysia, Thái Lan?

Bình thường thì không sao cả. Nhưng hễ có chuyện thì những người Hoa ấy sẽ ngả về phía nào? Đó là trường hợp không ngoại lệ đã xảy ra cho VN vào năm 1979. Trước 1975, có 200. 000 người Hoa ở phía Bắc và 1.200.000 ở phía Nam là có vấn đề chứ không phải là không có. Trong cuộc chiến tranh biên giới. Phiá VN cũng bắt được một văn kiện tuyệt mật của Quân Ủy Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc do tên Lê Xuân Thành, sinh 1949, tại Quảng, Đông Trung Quốc cung khai. Trong văn kiện có đoạn như sau:

“Nước ta và nhân dân Việt-Nam có mối hận thù dân tộc hàng ngàn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yêu nước, nhờ đó có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài, chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta. ”

Việt Nam cũng tịch thu được một thư của sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà Nẵng chống Việt Nam, thư do can phạm tên Hàng Phú Quang, bị bắt tháng 7, 1978. Xin trích một số đoạn:
1/ Toàn thể Hoa Kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí để đối phó với hoàn cảnh đặc biệt. 2/ Phải chú ý theo dõi đài phát thanh của Tổ Quốc. 3/ Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước. 4/ Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xin xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân.

(Trích tóm lược chương 5, từ trang 100-111 trong Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quôc. Một văn kiện do Bộ Ngoại Giao nước CHXHCN Việt Nam công bố ngày 04/10/1979, do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành tháng 10-1979. In 65. 000 ấn bản, tại nhà máy in Trần Phú, TP Hồ Chí Minh).

Chính phủ Trung Quốc đã dùng vấn đề người Hoa để chống VN từ bên trong. Lãnh đạo Trung Quốc coi người Hoa ở VN là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Họ đã tổ chức màng lưới gián điệp người Hoa trên đất VN. Họ cũng đã phát động phong trào trở về Trung Quốc hàng loạt.

Phải nhìn nhận, đây là một hiểm họa tiềm ẩn. Người Hoa tại nước ngoài cũng như ở VN trở thành đạo quân thứ năm của Trung Quốc nhằm phá rối VN.

Hiểm họa về mối liên hệ Đồng chí-Kẻ thù

Nếu không nhờ vả, nếu không lệ thuộc, nếu không là đồng chí, mối giao hảo giữa hai bên có thể quân bình hơn. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, cộng sản VN hiểu rõ cái thế và vai trò của họ giữa hai nước đàn anh lớn. Có lẽ chỉ mình Hồ Chí Minh đóng trọn vẹn vai trò đi dây này, cố gắng giữ được thế quân bằng quyền lực giữa Liên Xô và Trung Quốc.


La Quý Ba
Nguồn: Xinhua news Agency

Vì thế, giai đoạn từ 1950, do sự phải nhờ cậy Bắc Kinh trong cuộc chiến tranh Đông Dương và cũng do sự khéo léo, mềm dẻo của Hồ Chí Minh mà mối liên hệ Việt-Trung tạm được yên ổn. Nay những tài liệu phía Trung Quốc tiết lộ cho biết nhiều điều. Xin tóm tắt trong: Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống pháp. Hồi ký những người trong cuộc. Bài viết của La Quý Ba(1): Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Người dịch: Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy. Dương Danh Dy hiệu đính. Dương Danh Dy nguyên là bí thư chính trị tòa đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc).

‒ Tháng 1-1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp…

‒ Bước đầu tiên viện trợ VN là để khai thông giao thông biên giới Trung Việt, vì có thể vật tư viện trợ mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi.

‒ Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14/10/1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông:

“Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Thất Khê-Cao Bằng (Chỉ chiến dịch biên giới). Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng cộng sản Liên Xô... Tóm lại tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông, cách mạng quốc tế chủ nghĩa.”
‒ Viện trợ của Trung Quốc là viện trợ không điều kiện, chính phủ Trung Quốc không lấy tiền, đòi nợ Việt Nam, không ký bất cứ thỏa thuận hoặc hiệp định bất bình đẳng nào với Việt Nam.

Trong những bài viết khác của Trương Quảng Hoa, ông ta kê khai từng chi tiết một về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho VN đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Chỉ nhắc lại một điều thôi. phái đoàn Phạm Văn Đồng đi phó hội Geneva gồm 30 người đến Bắc kinh. Bọn họ không có ai có lấy một bộ áo veste. Trung Quốc đã may cho mỗi người hai bộ veste để đi phó hội Geneva.


Phạm Văn Đồng mặc veston của Tàu đi máy bay của Nga từ Moscow đến dự Hội nghị Geneva - Đứng giữa Andrei Gromyko và Zhou Enlai
Nguồn: © Bettmann/CORBIS



Lệ thuộc đến thế thì thôi nên không lạ gì các quyết định quan trọng đều do Chu Ân Lai đề xướng ra cả (Đọc thêm tài liệu: Chu Ân Lai và Hội Nghị Geneva của Tiền Giang (Qian Jiang, Zhou Enlai yu Rineiwa huiyi [Zhou Enlai and the Geneva Conference] - DCVOnline), người dịch Trần Thu Minh. Người hiệu đính: Dương Danh Dy, do Trung Cộng Đảng xứ xuất bản xã, 2005, tài liệu tham khảo nội bộ).
‒ Trong đại hội lần thứ hai của Đảng, người ta còn ghi lại được những đoạn như sau:

“Đảng Lao động Việt Nam lấy học thuyết của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng VN làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam của tất cả mọi hành động. Có thể nói đó là sự thể hiện tình hữu nghị chiến đấu khắng khít giữa hai nước Việt-Trung như môi với răng.”

‒ Trong kỳ Đại hội thành lập đảng lao động VN, bức điện gửi cho cộng sản Trung Quốc có đoạn sau:

“Đảng Lao động VN nguyện noi gương anh dũng đảng cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường Đôc lập và tự chủ”.

(Trích tóm tắt trong Hồi ký Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan. Hồi ký Cách Mạng, trong Talawas.org, 12/10/2006)

‒ Ngay cả võ Nguyên Giáp khi còn ở bên Tàu cũng cắp sách đi học người Tàu ở học viện Mác Xít do người Tàu truyền thu. Điều này, ông không hề tiết lộ ra trong các sách của ông. Nhưng chắc là ông có kể lại cho tác giả người Mỹ, Peter Mcdonald, người được độc quyền phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Peter Macdonald viết lại như sau:

“Because of his lack of formal training, it was Ho Chi Minh’s intention that Giap should study at the Institute of Marxism-Leninism in Yenan in China, but two weeks after he set off to go there, in June 1940, the Germans captured Paris...”
Ở một đoạn kế tiếp McDonald viết:

“With Phạm Văn Đồng, he went to Chinghi in China. There, Giap-whose alias at the time was Duong Huai-nan learned to speak and write Chinese and also studied the strategy and tactics of the communist Chinese army, putting what he learned into print in a pamphlet called “Chinese Military Affairs”
(Trích The victor in Viet Nam GIAP, Peter Macdonald, trang 26-27).


Nguồn: Giáp, By Peter G. Macdonald
Với sự tiết lộ của Peter Macdonald giúp làm rõ điều mà các tác giả Tây Phương vẫn cho rằng, ông Giáp là một thiên tài quân sự, chỉ học hỏi qua sách vở những chiến thắng quân sự của Napoléon hoặc do thu thập bởi kinh nghiệm mà không kinh qua bất cứ trường ốc nào.

Mặc dầu được sự giúp đỡ tối đa, vô điều kiện của Mao Trạch Đông, trong sách của ông Võ Nguyên Giáp như cuốn: Đường Tới Điện Biên hay: Điện Biên Phủ-Điểm Hẹn Lịch Sử, tướng Giáp thường né tránh khéo léo những trợ giúp của Mao Trạch Đông. Cũng vậy, ba cuốn: Điện Biên Phủ, Qua Những Trang Hồi Ức, Các Sĩ Quan đã từng tham dự chiến trận Điện Biên Phủ hầu như không một ai nhắc xa gần đến sự tiếp viện quân sự vô điều kiện và không hoàn lại của cộng sản Tàu.

Phải chăng, đây là một trong những nguyên cớ làm Trung Quốc bực bội về sự “vô ơn” và phản bội về phía Việt Nam? Và phải chăng cũng vì thế, nay tài liệu sử liệu của Trung Cộng cố tình bạch hóa công khai sự giúp đỡ này?

Sau đó, mối liên hệ đồng chí anh-em với Trung Quốc trở nên lạnh nhạt và căng thẳng nhất là khi Lê Duẩn ngả theo Liên Xô, ký thông cáo chung năm 1964. Lê Duẩn kéo theo một đám đồng chí có luận điệu chống Trung Quốc trong ngành Tuyên Huấn như Tố Hữu, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng. Trong ngành ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch. Trong quân đội có Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh. Trong ngành Công an như Trần Quốc Hoàn, Trong Viện Kiểm sát như Hoàng Quốc Việt. Và quan trọng nhất và đáng tin câỵ nhất là Lê Đức Thọ, Trưởng Ban tổ chức Trung Ương đảng.


Sự trả đũa của Trung Quốc

Năm 1974, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của miền Nam. Hà Nội đành im lặng, nhưng không phải là chấp nhận hay đống ý. Mối nghi ngờ giữa hai bên thêm trầm trọng.
Nhưng Trung Quốc khó có thể chấp nhận việc VN ngả theo Lỉên Xô. Nhất là kể từ khi Liên Xô viện trợ ồ ạt xe tăng, võ khí, đạn dược cho cuộc xâm chiếm miền Nam. Vì thế, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với các nhà báo ở Bắc Kinh như sau: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt Nam, miễn là 30% dành cho Trung Quốc.”

Càng ngày mối liên lạc hai bên càng xấu đi. Ngay khi Sài Gòn vừa mất sau ngày 30/04/1975, nòng súng bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì ngày 04/05, quân đội Pol Pot xua quân chiếm đảo Phú Quốc, ngày 08/05 đột nhập vào Tây Ninh, ngày 10/05, chiếm đảo Thổ Châu. Quân đội Bắc Việt được lệnh quay nòng súng về phía Cam pu Chia. Đằng sau Cam Pu Chia có sự yểm trợ quân sự của Trung Quốc và Thái Lan. Sau này vào ngày 31/07/1978,ông Hua Guofeng (Hoa Quốc Phong) nói: “Cuộc chiến đấu của nhân dân Kam-Pu-Chia là chính đáng và cuối cùng nhân dân Kam-pu-chia sẽ chiến thắng, chúng tôi ủng hộ nhân dân Kam-pu-Chia.”

Hầu như toàn thể nhân dân miền Nam sau 30/04/1975 đều không hề hay biết có một cuộc chiến tranh ở biên giới phía tây VN.

Hà Nội đã dấu kín việc này.

Thật sự là đánh nhau với Pol-Pot, nhưng gián tiếp là đánh nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tình hình giữa hai bên càng căng thẳng. Ngay từ 1975, Trung Quốc cắt các khoản viện trợ không hoàn lại. Ngưng các công trình xây dựng như cầu cống, đường lộ. Nhất là kể từ năm 1978, cắt các khoản viện trợ về trang thiết bi. Trả về các sinh viên đang theo học ở bên Tàu. Ngày 22-12-1978,cắt đường xe lửa nối liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuối cùng, đóng cửa toà Lãnh sự VN tại Quảng Châu. Gọi đại sứ Tàu về nước.

Và rồi việc phải đến đã đến. 1979, Trung Quốc xua quân sang xâm chiếm biên giới VN, ngay sau khi Đặng Tiểu Bình từ Washington trở về, để dạy cho VN một bài học. Phải chăng đó là bài học phải biết ơn và không được phản bội?

Câu nói của Hồ Chí Minh thật là vô nghĩa trong lúc này: “Việt-Trung hai nước thắm tình hữu nghị, vừa là bạn bè, vừa là đống chí. ” Nay thì phải thêm vào cho đủ nghĩa: Vừa là kẻ thù.
Có lẽ người hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc chiến Trung-Việt vẫn là Mỹ, vì họ phá vỡ được khối Liên Minh Cộng Sản Châu Á mà không tốn một viên đạn.


(Còn tiếp)

Chính quyền cần phải biết xin lỗi




Nguyễn Viện

nhà văn, TP Hồ Chí Minh

Cập nhật:03:23 GMT - Thứ Hai, 30 tháng 3, 2009

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/03/090330_nguyenvien.shtml

Được biết Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và binh chủng Hải quân vừa chính thức đưa ra các biện pháp tuyên truyền về biển - đảo, một vấn đề vốn được coi là "nhạy cảm" và chỉ được diễn ra một cách giấm giúi trước đây.

Khơi dậy tinh thần yêu nước, đặc biệt trong các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, mặc dù quá muộn nhưng dù sao cũng còn hơn không.

Có thể hiểu như thế nào về sự muộn màng này?

Bất cứ một người Việt Nam nào khi nhìn bản đồ Biển Đông với cái "lưỡi bò" của Trung Quốc liếm hết các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng phải nổi giận.

Trong khi các quốc gia trong vùng tranh chấp như Philippines, Malaysia đều có những động thái biểu thị chủ quyền của mình thì phía Việt Nam, chúng ta chỉ nghe được những câu nói quen thuộc đến nhàm chán của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng.

Không một người dân nào có thể thông cảm cho chính quyền với hàng loạt những sự kiện như trấn áp những người yêu nước công khai bày tỏ thái độ của mình trước sự xâm lăng ngạo mạn của Trung Quốc, đồng thời lại cho phép Trung Quốc vào Tây nguyên khai thác bauxite, mà hậu quả của nó ai cũng thấy rõ là nghiêm trọng như thế nào.

Không những thế, Trung Quốc còn có mặt ở hầu hết các công trình trọng điểm khác trên khắp nước với hàng vạn công dân của họ.

Một vài động thái như của ông Dương Trung Quốc trên báo Tuổi Trẻ ngày 23/03/2009, cũng như trước đó trong các ngày 20 và 21/03, Ban Tuyên giáo T.Ư đã tổ chức hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên truyền biển đảo, phân giới, cắm mốc và thông tin đối ngoại 2008, triển khai nhiệm vụ 2009 (cũng theo báo Tuổi Trẻ) đã cho thấy vẫn còn những dè dặt trong thái độ với Trung Quốc.

Những cuộc thăm viếng song phương gần đây của quan chức hai nước Trung Quốc và Việt Nam cho thấy Trung Quốc đang phủ dụ Việt Nam bằng tiền.

300 triệu đôla liệu có đánh đổi được sự mất đi vĩnh viễn của vùng biển đảo giàu tiềm năng và có ý nghĩa sống còn của thủy lộ đi ra thế giới này?

Liệu Việt Nam có khả năng chia phần với Trung Quốc trong việc tranh chấp quốc tế khi mà chính Trung Quốc đã buộc BP phải rời khỏi vùng khai thác dầu khí thuộc quyền lãnh thổ của mình?

Chính quyền cần phải biết xin lỗi

Nếu thật sự chính quyền đang có những nỗ lực tạo ý thức về chủ quyền biển đảo cho nhân dân như đã được thông tin, thì điều đó không thừa nhưng chưa đủ.

Việc tuyên truyền mang tính "học bài" xưa nay chính quyền vẫn làm, thật sự là một thái độ coi thường nhân dân.

Chính quyền cần phải tôn trọng lòng yêu nước của nhân dân bằng cách cho họ quyền tự do biểu thị lòng yêu nước đó bằng những hành động cụ thể.

Chính quyền cần phải công khai minh bạch cho nhân dân biết chúng ta đã mất bao nhiêu lãnh thổ từ biên giới đất liền cho đến hải đảo. Đồng thời, phải xin lỗi nhân dân và sửa chữa những lầm lỡ của mình từ thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho đến ngày nay.

Bên cạnh đó, chính quyền cũng cần xin lỗi tất cả những người yêu nước bị trấn áp trong thời gian qua, đặc biệt là với công dân Điếu Cày và thả ông ta ngay lập tức.

Chính quyền cần phải biết xin lỗi




Nguyễn Viện

nhà văn, TP Hồ Chí Minh

Cập nhật:03:23 GMT - Thứ Hai, 30 tháng 3, 2009

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/03/090330_nguyenvien.shtml

Được biết Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và binh chủng Hải quân vừa chính thức đưa ra các biện pháp tuyên truyền về biển - đảo, một vấn đề vốn được coi là "nhạy cảm" và chỉ được diễn ra một cách giấm giúi trước đây.

Khơi dậy tinh thần yêu nước, đặc biệt trong các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, mặc dù quá muộn nhưng dù sao cũng còn hơn không.

Có thể hiểu như thế nào về sự muộn màng này?

Bất cứ một người Việt Nam nào khi nhìn bản đồ Biển Đông với cái "lưỡi bò" của Trung Quốc liếm hết các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng phải nổi giận.

Trong khi các quốc gia trong vùng tranh chấp như Philippines, Malaysia đều có những động thái biểu thị chủ quyền của mình thì phía Việt Nam, chúng ta chỉ nghe được những câu nói quen thuộc đến nhàm chán của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng.

Không một người dân nào có thể thông cảm cho chính quyền với hàng loạt những sự kiện như trấn áp những người yêu nước công khai bày tỏ thái độ của mình trước sự xâm lăng ngạo mạn của Trung Quốc, đồng thời lại cho phép Trung Quốc vào Tây nguyên khai thác bauxite, mà hậu quả của nó ai cũng thấy rõ là nghiêm trọng như thế nào.

Không những thế, Trung Quốc còn có mặt ở hầu hết các công trình trọng điểm khác trên khắp nước với hàng vạn công dân của họ.

Một vài động thái như của ông Dương Trung Quốc trên báo Tuổi Trẻ ngày 23/03/2009, cũng như trước đó trong các ngày 20 và 21/03, Ban Tuyên giáo T.Ư đã tổ chức hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên truyền biển đảo, phân giới, cắm mốc và thông tin đối ngoại 2008, triển khai nhiệm vụ 2009 (cũng theo báo Tuổi Trẻ) đã cho thấy vẫn còn những dè dặt trong thái độ với Trung Quốc.

Những cuộc thăm viếng song phương gần đây của quan chức hai nước Trung Quốc và Việt Nam cho thấy Trung Quốc đang phủ dụ Việt Nam bằng tiền.

300 triệu đôla liệu có đánh đổi được sự mất đi vĩnh viễn của vùng biển đảo giàu tiềm năng và có ý nghĩa sống còn của thủy lộ đi ra thế giới này?

Liệu Việt Nam có khả năng chia phần với Trung Quốc trong việc tranh chấp quốc tế khi mà chính Trung Quốc đã buộc BP phải rời khỏi vùng khai thác dầu khí thuộc quyền lãnh thổ của mình?

Chính quyền cần phải biết xin lỗi

Nếu thật sự chính quyền đang có những nỗ lực tạo ý thức về chủ quyền biển đảo cho nhân dân như đã được thông tin, thì điều đó không thừa nhưng chưa đủ.

Việc tuyên truyền mang tính "học bài" xưa nay chính quyền vẫn làm, thật sự là một thái độ coi thường nhân dân.

Chính quyền cần phải tôn trọng lòng yêu nước của nhân dân bằng cách cho họ quyền tự do biểu thị lòng yêu nước đó bằng những hành động cụ thể.

Chính quyền cần phải công khai minh bạch cho nhân dân biết chúng ta đã mất bao nhiêu lãnh thổ từ biên giới đất liền cho đến hải đảo. Đồng thời, phải xin lỗi nhân dân và sửa chữa những lầm lỡ của mình từ thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho đến ngày nay.

Bên cạnh đó, chính quyền cũng cần xin lỗi tất cả những người yêu nước bị trấn áp trong thời gian qua, đặc biệt là với công dân Điếu Cày và thả ông ta ngay lập tức.

Những cuộc tấn công vào Đế chế-Mạng-Trực-Tuyến đang trở lại tại châu Á




Tạp chí Kinh tế Viễn Đông
FAR EASTERN ECONOMIC REVIEW
Geoffrey Cain
Số tháng 3-2009

Được lôi cuốn bởi tổ chức Hiến chương 77 của Czechoslovakia, một tập hợp không thuộc về nhà nước gồm những người nhà tranh đấu xã hội vào năm 1977 chỉ trích gay gắt những vụ đàn áp nhân quyền, nhóm Hiến chương ’08 của Trung Quốc tuyên bố:

Đối với Trung Quốc, con đường dẫn dắt ra khỏi tình trạng nguy hiểm của chúng ta hiện nay là tự tước bỏ khỏi bản thân chúng ta cái ý niệm độc đoán về sự trông cậy vào một thứ “lãnh tụ tìm đường khai sáng” hay một “công chức lương thiện” nào đấy và thay vào đó là hướng tới một hệ thống tự do, dân chủ, và sự cai trị bằng luật pháp, và hướng tới cổ vũ và nuôi dưỡng sự phát triển về ý thức thành những công dân hiện đại, những công dân coi nhân quyền như là nguyên tắc cơ bản và việc tham dự (vào sự bảo vệ và quảng bá nhân quyền) như là một nhiệm vụ.

Hơn 8.000 người đã ký vào bản Hiến chương 08 — được công bố ngày 10-12-2008, nhân kỷ niệm lần thứ 60 ra đời bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hiệp quốc – nhằm tận dụng một năm có sự chú ý mạnh mẽ của dư luận quốc tế hướng vào Trung Quốc. Tuy nhiên, không giống như những người đi trước ở Czechoslovakia, các học giả và nhà hoạt động Trung Quốc trong nhiều tháng đã ký tên vào bản văn kiện theo lối điện tử, tụ tập quanh những chiếc máy tính tại nơi làm việc của họ và các quán cà phê, tránh né được sự kìm kẹp chặt chẽ của chính quyền trên mạng Internet để nhanh chóng dẫn tới một hành động phản đối dữ dội trên mạng trực tuyến khắp đại lục Trung Quốc.

Làn sóng phản ứng dữ dội đã xuất hiện nhằm chống lại chính quyền Trung Quốc vì chính quyền nầy, trước thế vận hội Olympic, đã từng hứa nới lỏng các hạn chế truyền thông. Hai ngày trước khi bản Hiến chương được công bố trên mạng trực tuyến (8-12-08), công an đã bắt giữ hai nhà hoạt động, trong đó có nhân vật chỉ trích xã hội nổi tiếng Liu Xiabo, vì những nghi ngờ về việc phổ biến rộng rãi bản Hiến Chương để lấy chữ ký (ủng hộ). Họ vẫn chưa được trả tự do và nơi giam giữ cũng không được cho biết. Sau đó công an đã triệu tập ít nhất là 70 trong số 303 người ký tên ban đầu và ra lệnh cho họ phải rút lại những hành động ủng hộ của mình.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đang phải hoảng hốt về sự bùng nổ những người sử dụng các trang Web ở nước này – đã có tới 220 triệu người sử dụng Internet vào năm 2008, một sự nhảy vọt từ mức 162 triệu năm 2007, và 22 triệu năm 2000 – Tất cả những người sử dụng internet là những độc giả tiềm tàng của những thứ tài liệu nhạy cảm như bản Hiến chương ’08. Tỉ lệ truy cập Internet của nước này, kết hợp với một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và cú đòn suy thoái tại các quốc gia phương Tây, đang thúc đẩy cuộc đàn áp thẳng tay của chính quyền Trung Quốc giữa những nỗi lo sợ về tình trạng bất ổn ở đất nước nầy.

Một số lượng gia tăng các quốc gia trong khu vực đang sử dụng ngày càng nhiều các biện pháp kỹ thuật tương tự để sàng lọc và kiểm soát, mặc dù không phải luôn có được trình độ công nghệ tiên tiến như Trung Quốc, những thứ mà Trung Quốc đã và đang sử dụng trong những năm qua để hạn chế quyền tự do trên mạng Internet,” đó là nhận xét của Shawn Crispin, đại diện khu vực Đông nam Á của Uỷ ban Bảo vệ các Nhà báo và là cựu trưởng văn phòng đại diện tại Bangkok. “Những quốc gia này cũng đang sử dụng cùng một thứ luật an ninh quốc gia mà Bắc Kinh triển khai để thanh minh cho những vụ bắt bớ và bỏ tù những người viết trên mạng Internet,” ông nói.

Việt Nam, với những hoạt động blog chống đối cộng sản sôi động, đã trở thành kẻ theo đuôi trước tiên. Chính phủ nước này đã chế ra một hệ thống tường lửa không giống ai tại Đông nam Á, rập khuôn theo kiểu của Trung Quốc mặc dù vẫn có thế vượt qua được. Vào tháng 12-2008, chính phủ nước này đã loan báo là họ sẽ tìm kiếm sự trợ giúp từ Google và Yahoo! để ra nội qui và kiểm soát cộng đồng blog đang bùng nổ tại Việt Nam, giờ đây được tính lên tới hàng trăm ngàn blog. Yahoo! 360 là một sân chơi được ưa thích cho hoạt động blog ở Việt Nam, một viễn cảnh mà các blogger Việt Nam đã và đang cảm thấy lo ngại khi công ty này giao nộp thông tin cá nhân của nhà báo Trung Quốc Shi Tao vào năm 2005, dẫn tới bản án phạt tù 10 năm đối với ông vì tội “tiết lộ bí mật quốc gia.” Những blogger khác, trong đó có ông Nguyễn Văn Hải, dưới bút danh Điếu Cày, người từng lên tiếng (công khai) chống lại những thương thảo của Việt Nam với Trung Quốc quanh vấn đề Quần đảo Trường Sa, đã bị bắt vì những tội nghi ngờ là trốn thuế.

Những bước đi của chính phủ đang làm sôi sục một phản ứng chống đối dữ dội. Các blogger ủng hộ cho phong trào đang bí mật gắn kết lại tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp và xuất thân của họ thì khác nhau, nhưng hầu hết là những sinh viên hiểu biết về công nghệ thông tin, những người ủng hộ cho việc lật đổ chính quyền và lớn tiếng chống lại Trung Quốc.

Hoạt động ngầm trên mạng trực tuyến ở Việt Nam đã bắt đầu vào tháng 12-2007 giữa lúc có các cuộc biểu tình chống lại việc đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Quần đảo Trường Sa.

Hàng ngàn sinh viên phản kháng cần có một chỗ để phối hợp và quảng bá cho các kế hoạch của họ. Mạng Internet, khi đó là một lĩnh vực đi đầu trong quốc gia đang công nghiệp hóa nhanh chóng này, đã chứng tỏ là một mặt trận tiền phương rất phổ biến thông qua đó các blogger đã tổ chức phối hợp những cuộc biểu tình phản đối và công bố ngay lập tức những hình ảnh về sự tàn bạo của công an Việt Nam.

Những hành động trả đũa của chính quyền đã bắt đầu vào mùa hè năm ngoái 2008 nhằm chống lại các cư dân mạng sau khi họ đã phối hợp tổ chức thêm nhiều hơn những cuộc biểu tình phản đối chống lại Tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và đã đột nhập vào một trang Web tin tức chuyên bênh vực nhà nước, trang Dân Trí, vào tháng Năm, 2008. Nổ lực kiểm duyệt của Việt Nam tuy chưa sánh được với hệ thống kiểm duyệt thô bạo của Trung Quốc, nhưng Hà Nội hiện đang áp dụng những công nghệ giống hệt với Bắc Kinh.

Vậy mà Thái Lan, từng được trưng ra như là có hoạt động truyền thông cởi mở và phát triển mạnh mẽ, nay đã bắt đầu hệ thống trấn áp bằng kiểm duyệt có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử của họ nhằm chống lại những người chỉ trích chế độ quân chủ, Thái Lan đang chặn hơn 2.300 trang Web và kết án những người vi phạm lên tới 15 năm tù giam.

Chính quyền Bangkok cũng đang chơi trò phương Đông phản đối phương Tây về mặt ngoại giao để chống lại những sức ép dân chủ của phương Tây, theo một bản báo cáo của Ủy Ban bảo vệ các Nhà Báo (CPJ) cho hay.

Bộ luật về tội khi quân của nước này, từng nhắm vào những cuốn sách và bài báo được xuất bản chỉ trích nhà vua, nay đã nới rộng hiệu lực tới cả lĩnh vực Internet. Cuộc đàn áp đã bắt đầu vào năm 2007 khi các nhà chức trách chặn trang mạng YouTube vì có một đoạn phim video đả kích Vua Bhumibol Adulyadej kính yêu. Trong số những quy định ngặt nghèo về Internet của Thái Lan, các trang Web không được đăng những bức ảnh bất cứ ai nằm phía trên ảnh quốc vương. Hiện nay, theo lời những người chỉ trích, các quy định nầy đã vượt đi quá xa những câu chỉ trích mang tính thuần túy chống lại nhà vua, và qui định nầy đang chuyển hướng thành một cuộc săn đuổi được tin là mang tính chính trị mà trong đó không một ai được nói về gia đình hoàng tộc nầy. Trong lúc những cuộc căng thẳng giữa các đảng phái chính trị gia tăng, cuộc trấn áp có thể được mở rộng, theo như các báo cáo của tổ chức CPJ. Thủ tướng Abhisit Vejjajiva đã đặt lên hàng ưu tiên việc bảo vệ chế độ quân chủ chống lại những chỉ trích.

Đối với Arthit, một blogger Thái Lan nổi tiếng, người đã không cho biết họ của ông ta, những viễn cảnh phải vào nhà tù vì đưa ra nghi vấn về hoàng tộc đang làm mọi người lo sợ. “Với danh nghĩa tội khi quân, họ có thể hợp pháp hóa bất cứ hành động nào [chống lại sự chỉ trích] một cách tiện lợi,” ông nói.

Vào năm 2005, Harry Nicolaides, một giáo viên tiếng Anh người Úc ở Bangkok, đã tự xuất bản một cuốn truyện được coi là chỉ phát ra cho một nhóm người rất nhỏ. Một thông điệp ngắn gọn từ cuốn truyện đặt nghi vấn về những phẩm chất xứng đáng của vị thái tử đã giáng vào ông một bản án ba năm tù giam vào đầu năm nay; ông đã nhận được một lời tha thứ của hoàng gia vào tháng trước và đã quay trở về Úc.

Thậm chí tại Malaysia và Cambodia, những nơi từng duy trì những tiêu chuẩn dân chủ cho hoạt động trên mạng trực tuyến, hiện đang bóp chặt những tin tức nào hoạt động được xem như là có tính chất chống đối (chính quyền).

Vào tháng 12-2008, Phnom Penh đã trở thành vùng đối tượng của việc gia tăng dần dần hoạt động kiểm duyệt trên mạng sau khi chính phủ thông qua luật kiểm duyệt trên mạng đầu tiên của nước này để đối phó với trang reahu.net, một trang Web có những bức hoạ mô tả các vũ nữ truyền thống khỏa thân *, mặc dù Bộ trưởng Thông tin Khieu Kanharith đã từng hứa hẹn là luật này sẽ chỉ nhắm vào những sản phẩm khiêu dâm và “đồi bại” mà thôi. Thế rồi vào tháng 2-2008, một bản báo cáo gây tranh cãi của Global Witness, một tổ chức phi chính phủ [NGO], đề cập tình trạng tham nhũng trong khai khoáng và dầu mỏ đã được xác định là (và hiện nay vẫn) không thể truy cập vào được. Những lời kết tội đã được chĩa thẳng vào mạng AngkorNet, một nhà cung cấp dịch vụ Internet, về hành động kiểm duyệt đối với bản báo cáo, và những ý kiến kết luận về những mối quan hệ của chính phủ ở cấp cao với ban lãnh đạo của công ty này đã xuất hiện. Cho tới giờ, AngkorNet đã phủ nhận việc ngăn chặn trang Web ấy, trang nầy đã ám chỉ các viên chức chính phủ về việc che giấu hàng triệu đô la tiền lại quả.

Malaysia, nước vào năm 1996 đã hứa sẽ không kiểm duyệt Internet, thì hiện nay cũng đang tăng cường hệ thống kiểm duyệt trên mạng trực tuyến của mình, với ít nhất là ba cơ quan chính phủ giờ đây đang thực hiện việc kiểm tra các blog và trang Web nổi tiếng. Raja Petra, người sáng lập trang Web được nhiều người ưa thích Malaysia Today, đã bị bắt giữ năm 2008 theo Đạo luật An ninh Nội địa của nước này do ông viết những bài chỉ trích chính quyền.

Và hội đồng tư vấn Miến Điện, nơi đã thất bại trong việc ngăn chặn việc sử dụng Internet trong thời gian diễn ra cuộc Cách mạng Vàng năm 2007, đã gửi những nhân viên của họ tới Trung Quốc để huấn luyện về công nghệ thông tin. Chính phủ Miến cũng được cho là đã phát động những cuộc tấn công theo kiểu từ-chối-phục-vụ để chống lại các trang Web của những ngươi lưu vong vào thời điểm trùng khớp với lễ kỷ niệm Cách mạng Vàng. Đài Tiếng nói Dân chủ của Miến Điện đóng tại Na Uy đã truy dò theo những cuộc tấn công của Trung Quốc và Nga. [Những kẻ tấn công] đã sử dụng những máy tính được sắp đặt dưới dạng vô chủ … mặc dù theo tôi nghĩ rõ ràng mọi người đều thấy là chính phủ Miến Điện đó … đã có niềm khích lệ lớn nhất để tấn công vào các trang Web chỉ trích họ,” theo lời ông Crispin.

Trong khi các chính quyền phương Tây mất đi ảnh hưởng của họ trong việc chống lại ảnh hưởng đang lớn dần của Trung Quốc, hệ thống kiểm duyệt Internet trong khu vực nầy đang chuyển sang không phải là một chiều hướng lúc tiến lúc lùi mà là một hiện trạng đang phát triển. Các tay chơi cường quốc trên thế giới đã đón chào Trung Quốc đến với sân khấu nầy, và những hậu quả đang đánh vào quyền tự do ngôn luận. “Điều đó đã gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ đối với các chính phủ trong khu vực rằng họ không còn bị bó buộc để đi theo những cuộc cải cách dân chủ mà trước đó họ từng phải chịu áp lực của phương Tây để chấp nhận,” theo nghi nhận của ông Crispin, “bao gồm sự tự do báo chí và Internet.”

Ông Cain là một tác giả của mạng Global Voices Online.

Hiệu đính: Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009

Những cuộc tấn công vào Đế chế-Mạng-Trực-Tuyến đang trở lại tại châu Á




Tạp chí Kinh tế Viễn Đông
FAR EASTERN ECONOMIC REVIEW
Geoffrey Cain
Số tháng 3-2009

Được lôi cuốn bởi tổ chức Hiến chương 77 của Czechoslovakia, một tập hợp không thuộc về nhà nước gồm những người nhà tranh đấu xã hội vào năm 1977 chỉ trích gay gắt những vụ đàn áp nhân quyền, nhóm Hiến chương ’08 của Trung Quốc tuyên bố:

Đối với Trung Quốc, con đường dẫn dắt ra khỏi tình trạng nguy hiểm của chúng ta hiện nay là tự tước bỏ khỏi bản thân chúng ta cái ý niệm độc đoán về sự trông cậy vào một thứ “lãnh tụ tìm đường khai sáng” hay một “công chức lương thiện” nào đấy và thay vào đó là hướng tới một hệ thống tự do, dân chủ, và sự cai trị bằng luật pháp, và hướng tới cổ vũ và nuôi dưỡng sự phát triển về ý thức thành những công dân hiện đại, những công dân coi nhân quyền như là nguyên tắc cơ bản và việc tham dự (vào sự bảo vệ và quảng bá nhân quyền) như là một nhiệm vụ.

Hơn 8.000 người đã ký vào bản Hiến chương 08 — được công bố ngày 10-12-2008, nhân kỷ niệm lần thứ 60 ra đời bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hiệp quốc – nhằm tận dụng một năm có sự chú ý mạnh mẽ của dư luận quốc tế hướng vào Trung Quốc. Tuy nhiên, không giống như những người đi trước ở Czechoslovakia, các học giả và nhà hoạt động Trung Quốc trong nhiều tháng đã ký tên vào bản văn kiện theo lối điện tử, tụ tập quanh những chiếc máy tính tại nơi làm việc của họ và các quán cà phê, tránh né được sự kìm kẹp chặt chẽ của chính quyền trên mạng Internet để nhanh chóng dẫn tới một hành động phản đối dữ dội trên mạng trực tuyến khắp đại lục Trung Quốc.

Làn sóng phản ứng dữ dội đã xuất hiện nhằm chống lại chính quyền Trung Quốc vì chính quyền nầy, trước thế vận hội Olympic, đã từng hứa nới lỏng các hạn chế truyền thông. Hai ngày trước khi bản Hiến chương được công bố trên mạng trực tuyến (8-12-08), công an đã bắt giữ hai nhà hoạt động, trong đó có nhân vật chỉ trích xã hội nổi tiếng Liu Xiabo, vì những nghi ngờ về việc phổ biến rộng rãi bản Hiến Chương để lấy chữ ký (ủng hộ). Họ vẫn chưa được trả tự do và nơi giam giữ cũng không được cho biết. Sau đó công an đã triệu tập ít nhất là 70 trong số 303 người ký tên ban đầu và ra lệnh cho họ phải rút lại những hành động ủng hộ của mình.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đang phải hoảng hốt về sự bùng nổ những người sử dụng các trang Web ở nước này – đã có tới 220 triệu người sử dụng Internet vào năm 2008, một sự nhảy vọt từ mức 162 triệu năm 2007, và 22 triệu năm 2000 – Tất cả những người sử dụng internet là những độc giả tiềm tàng của những thứ tài liệu nhạy cảm như bản Hiến chương ’08. Tỉ lệ truy cập Internet của nước này, kết hợp với một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và cú đòn suy thoái tại các quốc gia phương Tây, đang thúc đẩy cuộc đàn áp thẳng tay của chính quyền Trung Quốc giữa những nỗi lo sợ về tình trạng bất ổn ở đất nước nầy.

Một số lượng gia tăng các quốc gia trong khu vực đang sử dụng ngày càng nhiều các biện pháp kỹ thuật tương tự để sàng lọc và kiểm soát, mặc dù không phải luôn có được trình độ công nghệ tiên tiến như Trung Quốc, những thứ mà Trung Quốc đã và đang sử dụng trong những năm qua để hạn chế quyền tự do trên mạng Internet,” đó là nhận xét của Shawn Crispin, đại diện khu vực Đông nam Á của Uỷ ban Bảo vệ các Nhà báo và là cựu trưởng văn phòng đại diện tại Bangkok. “Những quốc gia này cũng đang sử dụng cùng một thứ luật an ninh quốc gia mà Bắc Kinh triển khai để thanh minh cho những vụ bắt bớ và bỏ tù những người viết trên mạng Internet,” ông nói.

Việt Nam, với những hoạt động blog chống đối cộng sản sôi động, đã trở thành kẻ theo đuôi trước tiên. Chính phủ nước này đã chế ra một hệ thống tường lửa không giống ai tại Đông nam Á, rập khuôn theo kiểu của Trung Quốc mặc dù vẫn có thế vượt qua được. Vào tháng 12-2008, chính phủ nước này đã loan báo là họ sẽ tìm kiếm sự trợ giúp từ Google và Yahoo! để ra nội qui và kiểm soát cộng đồng blog đang bùng nổ tại Việt Nam, giờ đây được tính lên tới hàng trăm ngàn blog. Yahoo! 360 là một sân chơi được ưa thích cho hoạt động blog ở Việt Nam, một viễn cảnh mà các blogger Việt Nam đã và đang cảm thấy lo ngại khi công ty này giao nộp thông tin cá nhân của nhà báo Trung Quốc Shi Tao vào năm 2005, dẫn tới bản án phạt tù 10 năm đối với ông vì tội “tiết lộ bí mật quốc gia.” Những blogger khác, trong đó có ông Nguyễn Văn Hải, dưới bút danh Điếu Cày, người từng lên tiếng (công khai) chống lại những thương thảo của Việt Nam với Trung Quốc quanh vấn đề Quần đảo Trường Sa, đã bị bắt vì những tội nghi ngờ là trốn thuế.

Những bước đi của chính phủ đang làm sôi sục một phản ứng chống đối dữ dội. Các blogger ủng hộ cho phong trào đang bí mật gắn kết lại tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp và xuất thân của họ thì khác nhau, nhưng hầu hết là những sinh viên hiểu biết về công nghệ thông tin, những người ủng hộ cho việc lật đổ chính quyền và lớn tiếng chống lại Trung Quốc.

Hoạt động ngầm trên mạng trực tuyến ở Việt Nam đã bắt đầu vào tháng 12-2007 giữa lúc có các cuộc biểu tình chống lại việc đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Quần đảo Trường Sa.

Hàng ngàn sinh viên phản kháng cần có một chỗ để phối hợp và quảng bá cho các kế hoạch của họ. Mạng Internet, khi đó là một lĩnh vực đi đầu trong quốc gia đang công nghiệp hóa nhanh chóng này, đã chứng tỏ là một mặt trận tiền phương rất phổ biến thông qua đó các blogger đã tổ chức phối hợp những cuộc biểu tình phản đối và công bố ngay lập tức những hình ảnh về sự tàn bạo của công an Việt Nam.

Những hành động trả đũa của chính quyền đã bắt đầu vào mùa hè năm ngoái 2008 nhằm chống lại các cư dân mạng sau khi họ đã phối hợp tổ chức thêm nhiều hơn những cuộc biểu tình phản đối chống lại Tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và đã đột nhập vào một trang Web tin tức chuyên bênh vực nhà nước, trang Dân Trí, vào tháng Năm, 2008. Nổ lực kiểm duyệt của Việt Nam tuy chưa sánh được với hệ thống kiểm duyệt thô bạo của Trung Quốc, nhưng Hà Nội hiện đang áp dụng những công nghệ giống hệt với Bắc Kinh.

Vậy mà Thái Lan, từng được trưng ra như là có hoạt động truyền thông cởi mở và phát triển mạnh mẽ, nay đã bắt đầu hệ thống trấn áp bằng kiểm duyệt có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử của họ nhằm chống lại những người chỉ trích chế độ quân chủ, Thái Lan đang chặn hơn 2.300 trang Web và kết án những người vi phạm lên tới 15 năm tù giam.

Chính quyền Bangkok cũng đang chơi trò phương Đông phản đối phương Tây về mặt ngoại giao để chống lại những sức ép dân chủ của phương Tây, theo một bản báo cáo của Ủy Ban bảo vệ các Nhà Báo (CPJ) cho hay.

Bộ luật về tội khi quân của nước này, từng nhắm vào những cuốn sách và bài báo được xuất bản chỉ trích nhà vua, nay đã nới rộng hiệu lực tới cả lĩnh vực Internet. Cuộc đàn áp đã bắt đầu vào năm 2007 khi các nhà chức trách chặn trang mạng YouTube vì có một đoạn phim video đả kích Vua Bhumibol Adulyadej kính yêu. Trong số những quy định ngặt nghèo về Internet của Thái Lan, các trang Web không được đăng những bức ảnh bất cứ ai nằm phía trên ảnh quốc vương. Hiện nay, theo lời những người chỉ trích, các quy định nầy đã vượt đi quá xa những câu chỉ trích mang tính thuần túy chống lại nhà vua, và qui định nầy đang chuyển hướng thành một cuộc săn đuổi được tin là mang tính chính trị mà trong đó không một ai được nói về gia đình hoàng tộc nầy. Trong lúc những cuộc căng thẳng giữa các đảng phái chính trị gia tăng, cuộc trấn áp có thể được mở rộng, theo như các báo cáo của tổ chức CPJ. Thủ tướng Abhisit Vejjajiva đã đặt lên hàng ưu tiên việc bảo vệ chế độ quân chủ chống lại những chỉ trích.

Đối với Arthit, một blogger Thái Lan nổi tiếng, người đã không cho biết họ của ông ta, những viễn cảnh phải vào nhà tù vì đưa ra nghi vấn về hoàng tộc đang làm mọi người lo sợ. “Với danh nghĩa tội khi quân, họ có thể hợp pháp hóa bất cứ hành động nào [chống lại sự chỉ trích] một cách tiện lợi,” ông nói.

Vào năm 2005, Harry Nicolaides, một giáo viên tiếng Anh người Úc ở Bangkok, đã tự xuất bản một cuốn truyện được coi là chỉ phát ra cho một nhóm người rất nhỏ. Một thông điệp ngắn gọn từ cuốn truyện đặt nghi vấn về những phẩm chất xứng đáng của vị thái tử đã giáng vào ông một bản án ba năm tù giam vào đầu năm nay; ông đã nhận được một lời tha thứ của hoàng gia vào tháng trước và đã quay trở về Úc.

Thậm chí tại Malaysia và Cambodia, những nơi từng duy trì những tiêu chuẩn dân chủ cho hoạt động trên mạng trực tuyến, hiện đang bóp chặt những tin tức nào hoạt động được xem như là có tính chất chống đối (chính quyền).

Vào tháng 12-2008, Phnom Penh đã trở thành vùng đối tượng của việc gia tăng dần dần hoạt động kiểm duyệt trên mạng sau khi chính phủ thông qua luật kiểm duyệt trên mạng đầu tiên của nước này để đối phó với trang reahu.net, một trang Web có những bức hoạ mô tả các vũ nữ truyền thống khỏa thân *, mặc dù Bộ trưởng Thông tin Khieu Kanharith đã từng hứa hẹn là luật này sẽ chỉ nhắm vào những sản phẩm khiêu dâm và “đồi bại” mà thôi. Thế rồi vào tháng 2-2008, một bản báo cáo gây tranh cãi của Global Witness, một tổ chức phi chính phủ [NGO], đề cập tình trạng tham nhũng trong khai khoáng và dầu mỏ đã được xác định là (và hiện nay vẫn) không thể truy cập vào được. Những lời kết tội đã được chĩa thẳng vào mạng AngkorNet, một nhà cung cấp dịch vụ Internet, về hành động kiểm duyệt đối với bản báo cáo, và những ý kiến kết luận về những mối quan hệ của chính phủ ở cấp cao với ban lãnh đạo của công ty này đã xuất hiện. Cho tới giờ, AngkorNet đã phủ nhận việc ngăn chặn trang Web ấy, trang nầy đã ám chỉ các viên chức chính phủ về việc che giấu hàng triệu đô la tiền lại quả.

Malaysia, nước vào năm 1996 đã hứa sẽ không kiểm duyệt Internet, thì hiện nay cũng đang tăng cường hệ thống kiểm duyệt trên mạng trực tuyến của mình, với ít nhất là ba cơ quan chính phủ giờ đây đang thực hiện việc kiểm tra các blog và trang Web nổi tiếng. Raja Petra, người sáng lập trang Web được nhiều người ưa thích Malaysia Today, đã bị bắt giữ năm 2008 theo Đạo luật An ninh Nội địa của nước này do ông viết những bài chỉ trích chính quyền.

Và hội đồng tư vấn Miến Điện, nơi đã thất bại trong việc ngăn chặn việc sử dụng Internet trong thời gian diễn ra cuộc Cách mạng Vàng năm 2007, đã gửi những nhân viên của họ tới Trung Quốc để huấn luyện về công nghệ thông tin. Chính phủ Miến cũng được cho là đã phát động những cuộc tấn công theo kiểu từ-chối-phục-vụ để chống lại các trang Web của những ngươi lưu vong vào thời điểm trùng khớp với lễ kỷ niệm Cách mạng Vàng. Đài Tiếng nói Dân chủ của Miến Điện đóng tại Na Uy đã truy dò theo những cuộc tấn công của Trung Quốc và Nga. [Những kẻ tấn công] đã sử dụng những máy tính được sắp đặt dưới dạng vô chủ … mặc dù theo tôi nghĩ rõ ràng mọi người đều thấy là chính phủ Miến Điện đó … đã có niềm khích lệ lớn nhất để tấn công vào các trang Web chỉ trích họ,” theo lời ông Crispin.

Trong khi các chính quyền phương Tây mất đi ảnh hưởng của họ trong việc chống lại ảnh hưởng đang lớn dần của Trung Quốc, hệ thống kiểm duyệt Internet trong khu vực nầy đang chuyển sang không phải là một chiều hướng lúc tiến lúc lùi mà là một hiện trạng đang phát triển. Các tay chơi cường quốc trên thế giới đã đón chào Trung Quốc đến với sân khấu nầy, và những hậu quả đang đánh vào quyền tự do ngôn luận. “Điều đó đã gửi đi một tín hiệu mạnh mẽ đối với các chính phủ trong khu vực rằng họ không còn bị bó buộc để đi theo những cuộc cải cách dân chủ mà trước đó họ từng phải chịu áp lực của phương Tây để chấp nhận,” theo nghi nhận của ông Crispin, “bao gồm sự tự do báo chí và Internet.”

Ông Cain là một tác giả của mạng Global Voices Online.

Hiệu đính: Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009

Các sinh viên đã biểu tình




Ngô Nhân Dụng

Ngày hôm qua có một tin nhỏ nhưng lạ: Các sinh viên Ðại học Hồng Bàng ở Tân Bình, Sài Gòn biểu tình phản đối việc tăng học phí, và họ đã thành công. Ðiều lạ không phải việc sinh viên biểu tình. Trước đây các sinh viên đại học Hà Nội đã từng biểu tình phản kháng ban giám đốc về những vấn đề chỗ ăn ở trong trường. Hiện tượng lạ là phản ứng của giới lãnh đạo trường. Ngay sau khi một trăm sinh viên họp nhau trương biểu ngữ và hô khẩu hiệu phản kháng việc tăng tiền học ngày 18 Tháng Ba thì ban giám đốc trường này chịu thua ngay. Họ rút lại quyết định tăng học phí và trả lại tiền số tiền dư cho những sinh viên đã đóng rồi. Hoan hô tinh thần tranh đấu của các bạn sinh viên. Ở đời, không tự mình đứng lên thì người ta cứ coi thường mình mãi!

Nhưng xưa nay những người nắm quyền hành ở Việt Nam chưa bao giờ lại nhượng bộ lẹ như thế! Tại sao ông hiệu trưởng đại học này nhanh chóng nhượng bộ các sinh viên biểu tình, những sinh viên mà chính ông chủ tịch trung tâm hỗ trợ sinh viên của nhà trường công khai bêu xấu! Cái ông trùm “hỗ trợ sinh viên” đã tố các người biểu tình chỉ là những sinh viên “học yếu kém” và “chỉ ham tụ tập và đi chơi,” “điểm chỉ có 4 phẩy” (gọi là “dưới trung bình”). Tóm lại, theo ông ta đó là những sinh viên vừa dốt vừa lười, mà những đại học đứng đắn thường không ai thèm thu nhận, trừ khi chỉ nhận vào để thu tiền học phí!

Nhưng tại sao ông hiệu trưởng lại chịu lùi bước “một cách khẩn trương” trước những sinh viên vừa dốt vừa lười mà lại thiếu tiền đóng học phí như vậy? Bình thường, giới lãnh đạo ở Việt Nam sẽ tìm cách xoa vuốt những người biểu tình, tìm cách cho họ thỏa mãn một phần nào, vừa nhu cầu thực tế, vừa tự ái của họ. Rồi sau đó công an sẽ “làm việc” tiếp với những người khởi xướng. Nhưng lần này, ông hiệu trưởng đã chịu thua tức khắc!

Cho nên đây là một dấu hiệu cho thấy đảng Cộng Sản Việt Nam đang run. Họ rất lo sợ trước cảnh các bạn trẻ biểu tình phản kháng, dù phản kháng về bất cứ vấn đề lớn hay nhỏ nào, có lý do đúng hay không. Vì Ðảng Cộng Sản chỉ muốn các thanh niên này chấm dứt ngay, không kéo dài việc biểu tình. Cứ biểu tình mãi, sẽ tập thành thói quen nguy hiểm.

Cuối năm 2007 có những cuộc biểu tình “chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa,” công an đã phải dùng đủ mọi thủ đoạn từ mềm đến cứng mới tạm yên được. Hiện giờ giới trẻ trong nước lại đang sôi máu lên vì những biến động mới ngoài biển Ðông. Ðảng Cộng Sản phải ngăn ngừa trước không cho ngọn lửa yêu nước đó bùng lên trở lại.

Ðảng có thể ra lệnh cho đại học này hay không? Ðại học Hồng Bàng tuy được lập nên với tính cách một trường tư, nhưng đã được biến thành một trường của đảng. Cho nên, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, trường đại học này đã khoe thành tích tổ chức thi hoa hậu sinh viên vào năm ngoái. Trong mạng lưới của trường còn có cả mục “Tìm hiểu tử vi” quan trọng không kém gì các phân khoa; quý vị cứ gửi ngày sinh tháng đẻ vô đó, có các vị “giáo sư tiến sĩ” xem bói cho. Cũng trong mạng lưới đó có phần khoa học huyền bí, mở ra thấy chuyện một vị đi tìm mộ người em đã chết nhờ khoa học huyền bí. Ngoài ra, trường cũng quảng cáo cả chương trình MBA, cộng tác với các đại học Mỹ và Âu Châu nữa.

Nhưng nếu quý vị nhìn vào cơ cấu tổ chức trong địa chỉ mạng lưới của trường này thì thấy Ðảng Bộ nhà trường ngồi trên đầu tất cả các bộ phận, các chức trưởng. Dưới đó, hai cơ quan của đảng đứng ngang hàng hiệu trưởng, là công đoàn trưởng và đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tất cả các hiệu phó, các trưởng phòng, các khoa nằm bên dưới. Trong các phân khoa một đầu thấy Khoa Tin học, đầu kia thấy Khoa Mác Lênin. Ở giữa có một khoa tên là Nhật-Trung-Hàn. Không có khoa nào học về Việt Nam. Nhưng rõ ràng là tất cả phải răm rắp nghe lệnh đảng. Cho nên, nếu đảng cảm thấy “bức xúc” trước vấn đề sinh viên biểu tình, nhà trường phải chịu thua ngay. Tức là chuyển cuộc tranh đấu của sinh viên sang bên công an giải quyết theo phương pháp của công an!

Tuy nhiên, cuộc biểu tình của sinh viên thành công nhanh chóng cũng là một hiện tượng tốt. Nó khuyến khích những người khác, trẻ cũng như già, nhìn thấy rằng khi muốn những kẻ cầm quyền phải lắng nghe nguyện vọng của mình thì chính mình phải đứng dậy và lên tiếng. Những người bị ép bán nhà, bán đất, những người phải đút lót quan chức để chạy chọt giấy tờ, những người bị đuổi đường, đuổi chợ, tất cả, ai có nỗi oan khuất nào, thì phải lên tiếng tập thể. Các sinh viên đã mở đầu một cuộc phản kháng, họ không hát nhưng ai cũng nghe thấy: Dậy mà đi, hỡi đồng bào ơi!

Trong một nước Việt Nam có hàng triệu người bị oan khuất, hàng ngàn vấn đề dân đang tranh đấu với nhà nước. Trong số đó chỉ có một số người, một số vấn đề đủ nóng để gây nên những cuộc biểu tình. Ðảng Cộng Sản có thể theo lối cũ, làm thỏa mãn hoặc mua chuộc từng nhóm một, có khi từng người một, để dẹp yên, rồi đâu lại vào đó, kéo dài năm này sang năm khác.

Nếu người dân một nước muốn cải thiện đời sống chung, của tất cả mọi người, về lâu về dài, thì không thể chỉ theo phương pháp “van xin” như vậy. Dù cứ biểu tình và “làm đơn khiếu nại” mãi, rồi mai mốt lại tiếp tục khiếu nại và biểu tình, cũng không bao giờ thay đổi được quy chế “xin, cho” mà người Việt Nam đã chán ngán. Làm như vậy là theo lối sống thời quân chủ, phong kiến. Vào thế kỷ 19 ở nước ta, một người dân thường như bà Bùi Hữu Nghĩa dám đi từ Nam ra Huế, tới tận cửa triều đình gõ trống khiếu nại, vì chồng bà bị kết tội oan. Bà đã thành công, nhưng không vì thế mà giảm được những cảnh oan khuất cho những người dân khác; mà không phải ai cũng can đảm như bà.

Ðiều phân biệt giữa lối sống văn minh trên thế giới bây giờ, khác với chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa cũng như chế độ độc đảng chuyên chế ở Việt Nam, là các công dân một nước tự do dân chủ có quyền tham dự vào việc nước, trước khi nhà nước quyết định, chứ không phải chờ các vua quan quyết định rồi bị oan thì khiếu nại!

Cho nên người Việt chúng ta cần làm thế nào để mọi người dân Việt được “tham dự” vào những quyết định chung, trước khi những người cầm quyền quyết định. Một phương pháp tham dự giản dị là chính người dân được tự do chọn những người quyết định việc chung. Phải có bầu cử tự do. Việc góp ý kiến phải diễn ra một cách tự nhiên, giống như một công việc bình thường ai cũng phải làm, chứ không cần phải tổ chức biểu tình hoặc vác đơn đi khiếu oan. Muốn vậy thì phải có tự do phát biểu, tự do báo chí. Và việc tham dự phải thực hiện từ dưới lên trên, một cách cụ thể. Dân một xã phải được góp ý kiến về công việc xây dựng đường sá trong xã mình. Dân một nước phải được góp ý kiến vào việc quản trị tài nguyên nước mình, co nên cho người ngoài vào khai thác khoáng sản như bô xít hay không. Phải có những “kênh” cho các ý kiến khác nhau được cơ hội bầy tỏ. Ðó là những hội đoàn tự do và tự nguyện, các sinh hoạt của xã hội công dân, những mạng lưới và báo chí, truyền thanh truyền hình độc lập. Tất cả tạo ra lối sống tự do dân chủ.

Cho nên sau khi đã thành công trong việc đòi ngưng tăng học phí, các bạn sinh viên Ðại học Hồng Bàng có cơ hội nhìn xa hơn các quyền lợi thiết thực của mình, nhìn tới những nhu cầu của cả dân tộc. Các sinh viên học là để đi làm. Tại sao nước Việt Nam chậm tiến so với các nước Á Ðông khác? Quốc nạn tham nhũng vì chế độ độc tài là một chướng ngại ngăn cản phát triển kinh tế, có ai không biết? Tại sao những năm thời 1970 sinh viên Hàn Quốc và Ðài Loan phải biểu tình liên tiếp năm này sang năm khác để đòi tự do dân chủ? Cơ cấu chính trị độc đảng ở Việt Nam hiện nay có giải phóng cho các lực lượng sản xuất trong nước được tự do phát triển để tạo thêm công việc làm hay không?

Chúng ta cần đào tạo những chuyên viên giỏi để xây dựng nước Việt Nam. Ðây là một vấn đề các sinh viên phải quan tâm. Cơ cấu giáo dục do một đảng độc quyền cai trị hiện nay có nâng cao được trình độ học vấn của các thanh thiếu niên theo nhu cầu phát triển kinh tế hay không? Ông Barck Obama ở Mỹ đang tìm cách buộc những người giầu nhất nước Mỹ phải đóng thêm thuế để cải tổ y tế và nâng cao giáo dục. Nước Mỹ mà nó còn lo cải tổ như vậy. Còn ở nước ta, các đại gia giầu nhất nước có biết nhiều người Việt không bao giờ biết đến nhà thương bao giờ hay không? Một đại gia ở Việt Nam mới cho nhật báo Wall Street biết mỗi năm ông ta tiêu tốn 400,000 đô la Mỹ riêng trong việc sử dụng chiếc máy bay của ông ta mà thôi. Số tiền 400 ngàn Mỹ kim sẽ nuôi, dạy và chích ngừa bệnh được bao nhiêu học sinh tiểu học ở thôn quê? Người có tiền thì được phép tự do tiêu tiền, không ai cấm. Nhưng ông ta hiện đóng bao nhiêu thuế cho công quỹ, và phải góp bao nhiêu tiền hối lộ bỏ vào túi riêng của các quan chức? Nếu những người Việt khá giả như ông muốn làm việc thiện như ông Bill Gates ở Mỹ thì họ có quyền tự do lập hội thiện độc lập với đảng Cộng Sản hay không?

Cuối cùng, các bạn sinh viên nên nhớ: Nhu cầu chung lớn nhất của nước ta là thay đổi cơ cấu tổ chức cả xã hội cho hợp lý và công bằng. Trước hết là phân bố lại quyền chính trị. Không thể tập trung quyền hành vào tay một nhóm người, nhất là những người đã nổi tiếng là bất lực và tham nhũng!

Luật đất đai tại Việt Nam đã lỗi thời?

Nhã Trân, phóng viên RFA-Bangkok
2009-03-18

Thời gian gần đây, nhiều dư luận cho là chính sách thu hồi và đền bù đất còn bất cập, gây nhiều phẫn uất cho người dân bị mất đất và hậu quả là hàng ngàn vụ khiếu kiện xảy ra khắp nước.

Photo courtesy Vietnamnet

"Đất đai là sở hữu toàn dân và do nhà nước thống nhất quản lý"

Để thẩm định chính sách trưng dụng đất và đền bù cho người chủ, Nhã Trân tiếp tục lấy ý kiến của giới luật học về luật đất đai tại Việt Nam qua cuộc phỏng vấn Luật sư Bùi Quang Nghiêm, Luật Sư Đoàn TP.HCM.

"Đất đai là sở hữu toàn dân và do nhà nước thống nhất quản lý"

Nhã Trân : Chào LS Bùi Quang Nghiêm. Trước hết, xin hỏi ông là luật pháp của Việt Nam xác định như thế nào về quyền tư hữu đất?

LS Bùi Quang Nghiêm : Ở Việt Nam họ tách nhà với đất ra. Nhà là một trong những tài sản có trên đất, tài sản trên đất. Việt Nam ra luật đất đai lần đầu tiên vào năm 1985, khẳng định rằng "đất đai là sở hữu toàn dân và do nhà nước thống nhất quản lý", và có một nguyên tắc là "tôn trọng quyền sử dụng hiện tại của các cá nhân và của các tổ chức".

Nhã Trân : Ông có thể cho biết chi tiết là quy định về quyền sở hữu đât như thế, theo tinh thần luật đất đai của Việt Nam, đã được ban hành vào thời điểm nào và trong hoàn cảnh nào ?

LS Bùi Quang Nghiêm : Sau khi thống nhất đất nước thì năm 1985, tức sau 10 năm, có luật đất đai đầu tiên. Trước năm 1954 ở Miền Bắc, theo tôi biết, là phụ thuộc vào nội dung luật của người Pháp. Người Pháp cũng công nhận là đất đai thuộc sở hữu tư nhân rồi, và ở Miền Nam - dưới chế độ Pháp thuộc hay là trong thời thuộc Mỹ - thì ở Miền Nam luật cũng quy định là đất đai thuộc sở hữu tư nhân, tức là tư nhân cũng có thể sở hữu đất đai trên toàn bộ nước Việt Nam.

Chỉ có Miền Bắc sau năm 1954 và ở Miền Nam sau năm 1975 thì luật đều quy định là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý, và tôn trọng quyền sử dụng hiện tại của các cá nhân hoặc tổ chức mà đang sử dụng đất hay canh tác trên đất đó.

Nhã Trân : Thưa ông, nhiều dư luận gần đây cho rằng quyền sở hữu đất được ấn định theo như luật đất đai của Việt Nam như vậy là nguyên nhân cội rễ của vấn đề tranh chấp đất và vấn đề khiếu kiện của dân oan. Vậy xin hỏi ông, là một luật gia với gần 30 năm hành nghề, quan điểm của ông là quyền này có hợp lý hay là bất cập?

LS Bùi Quang Nghiêm : Cái này thì có rất nhiều ý kiến khác nhau. Quyền sở hữu đất đai theo luật Việt Nam gây ra rất nhiều hệ luỵ cho quản lý cũng như cho người sử dụng đất đai. Nhưng, nói chung thì đã thành luật thì chúng ta phải tôn trọng nó. Tôi đồng ý rằng quyền sở hữu đất đai do luật Việt Nam cũng có yếu tố lịch sử mà nó hình thành ra cái quy định là đất đai thuộc sở hưu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý.

Nhã Trân : Thưa ông, có phải là tại những nước tiến bộ hay là dân chủ thì quyền này không bị giới hạn như thế, có nghĩa là người chủ đất không những có quyền sử dụng đất mà còn có toàn quyền làm chủ đất đai của mình, và trong trường hợp cần trưng dụng đất thì chính phủ phải bồi thường hợp lý và thoả đáng cho người dân ?

LS Bùi Quang Nghiêm : Trên thế giới này họ tôn trọng quyền sở hữu đất đai của người nông dân đang canh tác trên đất như để trồng lúa, trồng hoa màu, làm vườn hoặc là xây nhà trên dó. Đất ở đô thị cũng vậy. Đất đang sử dụng thì đấy thuộc quyền sở hữu tư nhân của người ta.

Có những điều kiện nhất định khi nhà nước lấy lại để xây dựng các công trình phúc lợi cho xã hội thì phải có một chính sách hay là phải có luật quy định rõ ràng về các loại đất để đảm bảo được rằng là nếu đất mà sinh lợi như nhau thì phải được đền bù giá trị như nhau.

Phải mạnh dạn thay đổi luật đất đai

Nhã Trân : Thưa, theo ông thì luật đất đai của Việt Nam có cần phải được xem lại hay không?

LS Bùi Quang Nghiêm : Quyền sở hữu đất đai theo luật Việt Nam gây ra rất nhiều hệ luỵ cho nên là tôi đồng ý cần phải thay đổi luật đất đai, làm sao để đảm bảo cho người đang sử dụng đất, đặc biệt người nông dân, là đất đai thuộc sở hữu của họ. Khi nhà nước muốn lấy lại làm những công trình công ích thì phải có chính sách hay luật phải quy định một cách rõ ràng hơn để bớt đi thiệt hại của những người mà người ta đã sống gắn bó với đất đai vốn là tài sản của người ta đã có trên đất đó.

Tôi hoàn toàn ủng hộ ý tưởng là phải thay đổi luật đất đai và công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai, bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất không những của nông dân mà còn của giới doanh nhân nữa.

Bây giờ nhà nước nên thừa nhận đất đai là thuộc sở hữu tư nhân. Những cái gì (đất đai) mà người dân đang sử dụng, nông dân đang sử dụng để trồng lúa, đang sử dụng làm vườn, ở thành phố người ta đang sử dụng làm nhà ở trên đó, thì đều thuộc sở hữu tư nhân.

Tôi biết ở Việt Nam thì nó có hoàn cảnh lịch sử của nó. Chính hoàn cảnh lịch sử ấy đã đẻ ra cái luật đất đai 1985 và tồn tại đến bây giờ. Tôi thừa nhận cái đấy là một điều kiện lịch sử, nó đã xảy ra như thế. Nhưng mà bây giờ tình thế đã đổi khác rồi thì chúng ta phải quay lại cái điều hợp lý mà trên thế giới này họ đã làm.

Nhã Trân : Vâng. Và sự cải sửa này có thể sẽ giúp giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện của dân chúng về đất đai lâu nay ?

LS Bùi Quang Nghiêm : Dạ. Vào những năm 1975-1985 quan điểm chính trị của Việt Nam về sở hữu tài sản ở Việt Nam nói riêng và nói chung là ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lúc bấy giờ, cũng như ở Trung Quốc bây giờ, nó cũng có cái đặc thù của nó, tức là quy luật là phải từ sở hữu riêng thành sở hữu chung xã hội chủ nghĩa chứ không thể nào đi ngược đựơc.

Nhưng mà sau khi Việt Nam thay đổi, tức là từ năm 1986 đến nay thì có rất nhiều khái niệm về tài sản và chính trị đã được thay đổi, thí dụ các thành phần kinh tế, rồi sở hữu tư nhân, luật công ty, vân vân, đã thay đổi rồi và nó khác với quan điểm chính thống xét vào thời điểm lịch sử trước năm 1975 cho đến năm 1986. Như vậy cái quan điểm của đảng cộng sản và giới chính trị ở Việt Nam và ở các nước khác nó cũng thay đổi rồi, thì theo tôi, bây giờ chúng ta phải mạnh dạn thay đổi cả cái luật đất đai theo hướng là công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai.

Hội thảo đầu tiên về chủ quyền biển Đông




Lần đầu tiên hôm 17/3, giới học giả Việt Nam có hội thảo chính thức về tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, chủ đề vẫn bị coi là 'nhạy cảm'.

Điều đáng chú ý là hội thảo "Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông: lịch sử, địa chính trị và luật pháp quốc tế" được tổ chức trong bối cảnh có nhiều diễn biến mới tại khu vực biển mà sáu quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền.

Tuy nhiên, gần như chỉ có sự quy tụ của giới học thuật, chuyên gia và một số nhà báo, không có quan chức nhà nước.

Trong một ngày, 14 diễn giả đã đọc tham luận chia làm ba nhóm chủ đề: Lịch sử các quá trình tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng tại biển Đông; Luật pháp quốc tế và tranh chấp chủ quyền tại biển Đông; Biển Đông và quan hệ quốc tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Vai trò của Trung Quốc như một cường quốc đang lên trong tương quan biển Đông được đặc biệt chú ý trong quá trình thảo luận.

Một diễn giả đã nhấn mạnh về chính sách của Bắc Kinh trong thời đại mới, rằng Trung Quốc "rất chú trọng đến việc chuẩn bị dư luận trong vấn đề biển Đông", "không từ bỏ một thủ đoạn nào, diễn đàn nào để khẳng định chủ quyền của mình".

Trong khi đó, dư luận Việt Nam chưa được tiếp cận thông tin về các sự thực lịch sử, các cơ s̉ơ pháp lý của Việt Nam trong tranh chấp biển Đông.

Có diễn giả cảm thán: "Từ 1909 đến nay, đúng một thế kỷ tranh chấp chủ quyền về biển Đông. Nhưng Việt Nam chưa biết sử dụng kết quả nghiên cứu, chưa biết tập hợp lực lượng".

"Người nghiên cứu cứ thấy mình đang làm một việc mà như giấu diếm, như bất hợp pháp vậy. Trong khi đó, Trung Quốc đào tạo và công bố tài liệu và rao giảng khắp thế giới."

Kêu gọi đồng thuận

Ba khía cạnh của chủ quyền tại biển Đông được bàn tới là vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, và tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó dựa theo đường phân định chữ U mà nước này đưa ra, Trung Quốc chiếm gần như trọn khu vực biển Đông.

Có ý kiến nhận định, Hoàng Sa sau trận thủy chiến giữa quân Trung Quốc và quân đội Việt Nam Cộng hòa năm 1974, đã hoàn toàn vào tay Trung Quốc, "không thể lấy lại được". Do vậy, "vấn đề nút, nóng, là quần đảo Trường Sa".

Những người tham gia hội thảo cho rằng cần vận động sự đồng thuận của xã hội (kể cả người VN ở nước ngoài) trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ, công khai hóa thông tin, thu hút sự quan tâm của các cấp, kể cả cao cấp nhất và "mở rộng dư luận để mọi người đều biết, đều có trách nhiệm về vấn đề chủ quyền biển".

Thậm chí còn có đề xuất đem vào trường học chương trình giảng dạy và nghiên cứu về chủ quyền tại Hoàng Sa-Trường Sa.

Hồ sơ pháp lý của Việt Nam cũng phải được chuẩn bị đầy đủ trong nỗ lực tìm cách giải quyết tranh chấp thông qua ngoại giao và đàm phán quốc tế.

Tiến sỹ Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Luật biển và hàng hải quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được trích lời nói: "Chuẩn bị luận cứ pháp lý là yêu cầu đầu tiên và phải là chính".

Việt Nam, theo một số chuyên gia, cần tận dụng thời cơ khi các nước trong khu vực đang đẩy vấn đề này rất quyết liệt, và dựa trên quan hệ đa phương nhất là với ASEAN để đàm phán về lãnh thổ.

Họ cũng khuyến cáo Quốc hội cần thông qua luật về chủ quyền đối với Hoàng Sa - Trường Sa, và chính phủ Việt Nam phải có chiến lược biên toàn diện và đồng bộ, thay vì chỉ có chiến lược kinh tế biển như hiện nay.

Nguồn: BBC Vietnamese

Âm thầm tưởng niệm các chiến sĩ hi sinh tại Trường Sa




TRƯỜNG SA, Việt Nam: Ngày 14/3/2009, các chiến sĩ trên đảo Trường Sa trên đã tưởng niệm 64 đồng đội của mình, những người đã hi sinh anh dũng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa 21 năm trước.

Hàng năm vào ngày này, các chiến sĩ trên đảo vẫn tổ chức tưởng niệm. Năm nay cũng vậy. Việc tưởng niệm này diễn ra âm thầm. Báo chí, truyền thanh, truyền hình Việt Nam (trừ Tuổi Tré Online) đã không một lời nhắc tới dự kiện này.

Dưới đây là bản tin đăng trên Tuổi Trẻ:

"Ngày 14-3, cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị đang đóng quân tại quần đảo Trường Sa đã tổ chức các hoạt động tưởng niệm ngày 64 cán bộ, chiến sĩ hải quân Quân đội nhân dân VN anh dũng hi sinh khi chiến đấu tại đảo Gạc-ma và vùng lân cận để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc ngày 14-3-1988, cách đây 21 năm.
Theo các đơn vị, hằng năm, ngày này cán bộ, chiến sĩ vẫn làm lễ tưởng niệm đồng đội đã hi sinh. Thượng úy Nguyễn Văn Mạnh, đảo trưởng đảo Cô-lin, cho biết hôm qua trên đảo cũng có giỗ tưởng niệm các đồng đội đã hi sinh. Vào ngày 14-3 hằng năm, đơn vị luôn tổ chức sinh hoạt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về truyền thống và tinh thần chiến đấu, anh dũng hi sinh của các liệt sĩ là đồng đội đàn anh đi trước để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc tại quần đảo Trường Sa."

Theo một số tài liệu, ngày 13/3/1988, hai chiếc tầu của Hải quân Việt Nam mang số hiệu HQ505 và HQ 605 đã chở đồ tiếp tế cho tầu HQ 604 đang trấn giữ tại đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là một đảo chìm, chỉ có vài tảng đá nhô lên khỏi mặt nước. Tầu 604 đã neo tại đây hàng tháng và chưa có chuyện gì xảy ra mặc dù tầu hải quân Trung Quốc vẫn lượn lờ không xa.

Ngày 14/3/1988, khi một số chiến sĩ Hải quân Việt Nam đang tìm cách dựng cột để cắm cờ thì tầu chiến Trung Quốc xuất hiện. 4 tầu chiến Trung Quốc với trang bị vũ khí hiện đại đã bao vây các tầu Việt Nam và khai hỏa. Tầu HQ 604 bị chìm, HQ 505 bị cháy.

64 chiến sĩ hi sinh, xác họ vĩnh viễn nằm lại biển khơi, 9 người sau đó được Trung Quốc trao trả tù binh. Cho tới nay, chưa có tài liệu nào chính thức được công bố, chưa có lễ tưởng niệm chính thức nào dành cho họ.

Nguồn: DCV Online

TIẾNG KÊU CỨU CỦA NÚI RỪNG

Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Báo Saigon Tiếp Thị số 22 ra ngày thứ Sáu 6/3/2009, nơi trang 36 có đăng bài “ Chuẩn bị khời công nhà máy luyện Oxid nhôm” của tác giả Bảo Ngọc. Bài báo được nhấn mạnh ( in chữ to ) bởi một đoạn như sau :

Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ ( thuộc tập đoàn than khoáng sản Việt Nam TKV ) đã hoàn tất việc san ủi mặt bằng chuẩn bị khởi công nhà máy luyện oxid nhôm tại xã Nhân Cơ ( huyện Dak Rlap ), Với diện tích 200 hecta, các hạng mục phụ trợ khác như đường vào nhà máy, khu nhà điều hành, … cũng đã hoàn thành.

Với thông tin này, bài báo cho thấy người ta chính thức khẳng định quyết tâm thực hiện dự án khai thác quặng boxit vùng tây nguyên, bất chấp dư luận và bất chấp phản biện xã hội, cho dù các phản biện đó có căn cứ khoa học và văn hóa. Khai thác quặng boxit tại tây nguyên, người ta cố tình thực hiện một cuộc tàn phá hủy diệt môi trường sống của muôn loài, trong đó có loài người, có một chủng tộc con người mang tên Việt Nam.

Không thể biện minh bằng lợi nhuận kinh tế, bởi các nhà kinh tế và khoa học đã chỉ ra rằng không có lợi nhuận cho quốc gia về phương diện kinh tế, ngược lại còn làm thiệt hại kinh tế do lượng điện, lượng nước tiêu thụ quá lớn nhưng giá thành của thành phẩm trên thế giới quá rẻ.

Theo dõi các phản biện được công khai phát biểu, chúng ta không hiểu nổi tại sao người ta lại quyết định như thế nếu người ta còn lương tri.

Không thể tin được qui trình được vạch ra trên giấy mà có thể áp dụng trong thực tế. Người ta biện minh bằng qui trình rằng, làm vệ sinh mặt bằng ( khai thác gỗ ), bóc lớp đất mặt để qua một bên, khai thác lớp quặng bên dưới, sau đó lấp lại lớp đất mặt, bón thêm phân để phục hồi đất và tái trồng cây phủ xanh mặt bằng. Tin được không ? Con nít cũng không tin được. Họ làm như họ đào một khoảng đất vài mét và làm hoàn chỉnh ngay trong ngày, mà ngay cả làm trong một phạm vi nhỏ bé như vậy, họ có bao giờ làm đàng hoàng đâu, cứ xem ba cái lô cốt trong thành phố này, hết ngày này qua ngày khác, rào lại để hạn chế đường giao thông, vắng tanh không một người thợ làm việc, cứ vậy năm này qua tháng khác ( báo Tuổi trẻ số ra ngày thứ hai 9/3/2009 thông tin nơi trang 3: có 194 lô cốt trên 72 tuyến đường ). Mà nếu có cái nào làm xong, thi hãy chạy một vòng để xem cách họ tái tạo mặt bằng, nham nhở như gương mặt nham nhở của những kẻ vô lương tri. Tội nghiệp ! báo ra ngày hôm nay ( báo Phụ Nữ thứ ba 10/3/2009 ) đăng tin về một người con gái , tuổi em còn rất trẻ ( 22 tuổi ), em đã trượt ngã xe vì mặt đường tái tạo không hoàn chỉnh, chiếc xe sau chồm tới cán chết em tại chỗ, đau xót làm sao ! Biết tin này, nhưng kẻ có trách nhiệm có thấy một chút gì ân hận không? Tôi nghĩ là không, vì nếu có thì đã bao nhiêu cái chết thương tâm trước đó do cách làm cẩu thả phải làm cho họ thay đổi cách làm việc đi chứ, dâu cứ mãi như vậy.

Họ rẻ rúng mạng con người quá, họ chỉ biết lợi nhuận dành cho họ, họ bất chấp hậu quả tai hại như thế nào để lại cho người khác gánh chịu. Tôi không tin và tôi chắc rằng rất nhiều người không tin vào lời cam kết theo qui tŕnh để tái tạo mặt bằng của những người chủ trương khai thác quặng oxid nhôm.

Khi khai thác, họ có tính đến việc những cơn mưa ở đầu nguồn sẽ đổ xuống không ? Họ có biết những cơn mưa lũ đầu nguồn sẽ gây ra những tai hại gì khi đống đất dở dang đang được bóc ? Hay họ sẽ “vắt đất thay trời làm mưa, nghiêng ruộng đổ nước ra biển” ? Có thể lắm, xưa nay họ vẫn chủ trương như vậy mà, nếu vậy kinh nghiêm “chống băo, chống lũ, chống lụt, chống …” chống cả trời đất bao nhiêu năm nay sẽ dạy họ thêm bài học nào nữa ? Bao nhiêu người dân vô tội, của cải ruộng vườn , cơ nghiệp, .. sẽ chịu thiệt hại để trả giá cho bài học kiêu ngạo ?

Làm sao để bóc tách được oxid nhôm ra khỏi quặng thô ? Sẽ phải dùng bao nhiêu nước, bao nhiêu điện cho công việc này ? Ngay đầu nguồn, nước bị tận dụng vào khai thác quặng, mạch nước ngầm cũng như không ngầm sẽ ra sao ? Số phận của bao nhiêu gia đình miền xuôi cuối nguồn nước sẽ ra sao ? Ngay bây giờ đă thiếu nước sạch sinh hoạt, khai thác quặng ở đầu nguồn thì thiếu cái gì ? Mấy ngày nay trời chưa khô điện đã thiếu, “mấy ông lớn” đổ lỗi cho nhau, chỉ người dân nghèo chịu … chết, các ông vẫn nằm phòng máy điều hòa không khí, vẫn ngồi xe máy lạnh và vẫn đổ bia đổ rượu để trầm ḿnh trong các cuộc truy hoan “vì công vụ” !

Để bóc tách quặng có dùng hóa chất không ? Các nhà chuyên môn bảo rằng có, mà là hóa chất cực độc, vậy thì những giòng hóa chất thải ra len lỏi đến tận đâu, có thấm vào thịt đất không ? Có tràn vào các giòng sông giòng suối không ? Ai bảo đảm rằng ngăn chặn được giòng chảy này ? Ai bảo đàm rằng không thấm vào thịt đất ? Ai bảo đảm được xin trả lời cho công luận. Công trình hầm Thủ Thiêm, hàng chục chuyên gia, bao nhiêu máy móc tối tân, những bài tính được xây dựng bằng những phương pháp hiện đại, chọn lựa vật liệu rất kỹ lưỡng, thử nghiệm thiết kế cấp phối trước khi thi công, xay đá cục lạnh trộn vào để chống tăng nhiệt, tính toán phụ gia, hàng trăm cán bộ giám sát, thi công thử nghiệm mô hình thu nhỏ, ... Thế mà 4 đốt hầm vượt sông Saigon sang Thủ Thiên bị … nứt thê thảm !

Hóa chất tràn lan. Vụ án chất độc màu da cam còn có Mỹ để kiện, chất độc từ việc khai thác quặng này kiện ai ? Cứ xem vụ án Vedan thì biết người dân sẽ kiện được ai ? Nửa năm trôi qua của vấn đề, hàng chục năm đi qua trong thiệt hại, các chủ nhân ông vẫn sống nhởn nhơ, vẫn tiếp tục sản xuất, vẫn tắm bia tắm rượu. Cả một guồng máy công quyền hùng mạnh bách chiến bách thắng đứng cãi nhau, báo chí càng la to, sức ì càng lớn, rồi đây khi “cứt trâu hóa bùn”, nhặt vài anh “to miệng” ra tòa là xong mọi chuyện ! Đất nước này, người dân này oằn mình chịu khổ đau.

Một bộ phận rất lớn người anh em miền núi làm nên dân tộc Việt Nam, cuộc sống của những bộ tộc này gắn liền với núi rừng, rừng là nhà để sống, âm thanh của rừng là tiếng nhạc cồng chiêng. Ba mươi năm trước, cuộc di dân ồ ạt lên tây nguyên, biết bao nhiêu hecta rừng đă bị đốn sạch, rừng cạn kiệt, thú rừng cạn kiệt, người anh em miền núi thoi thóp sống, lẻ tẻ một vài thú rừng còn sót lại điên cuồng phá phách để chết, bài học đó vẫn còn sờ sờ trước mắt, nhưng người ta nhắm mắt lại để tận diệt rừng, hóa ra rừng như là “kẻ thù” của họ vậy ! Tội nghiệp rừng, rừng vẫn từng che chở nuôi sống họ, bây giờ họ tự sống được rồi, rừng không còn cần nữa.

Chúng ta đọc được trong học thuyết xă hội của Giáo Hội Công giáo các hướng dẫn sau đây có liên quan đến nỗi đau mà chúng ta đang gánh chịu ( sách Tóm lược học thuyết xă hội của Giáo Hội Công giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Bác ái Xă hội, Nhà xuất bản Tôn giáo, xuất bản quí 4 năm 2007, sách có bán tại các nhà sách công giáo ).

(470) Các chương trình phát triển kinh tế cần phải cẩn thận lưu ý tới “nhu cầu tôn trọng sự tòan vẹn và chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên”, vì các tài nguyên thiên nhiên thì có hạn, thậm chí có một số tài nguyên không thể tái tạo được. …

(471) Mối quan hệ của những dân bản địa với đất đai của họ và tài nguyên là một điều rất đáng chú ý, vì đó là cách biểu hiệu cốt yếu nhất bản sắc của họ. Vì những nguồn lợi lớn lao về công – nông nghiệp hay vì tiến trình đồng hóa và đô thị hóa quá cao, nên nhiều người trong số các dân tộc này đã đành để mất hay liều mất đất đai mà họ đang sống trên đó, những mảnh đất đă từng gắn chặt với ý nghĩa cuộc đời họ. Quyền lợi của các dân bản địa cần phải được bảo vệ một cách thích đáng. Các dân tộc này cho ta một điển hình về đời sống hài hòa với môi trường mà họ đã rất quen thuộc và đã bảo tồn bấy lâu nay. Kinh nghiệm đặc biệt của họ, vốn là nguồn di sản tinh thần không thể thay thế được cho toàn thể nhân loại, đang có nguy cơ bị đánh mất cùng với môi trường đã khai sinh ra họ.

Không phải Giáo Hội không có lập trường của mình về các vấn đề xã hội, đặc biệt là môi trường trong tương quan với con người. Bây giờ phải làm sao ?

Lm. Vĩnh Sang, dcct
Mùa Chay 2009

Hình : Khai thác bô-xít tại Úc

kết quả thế này

Hình : Khai thác bô-xít tại Ấn

Làm ơn đừng nói rằng công nghệ khai mỏ của họ không "tân tiến" bằng ta !

Công An TP HCM triệt hạ uy tín LS Lê Trần Luật




Từ khi nhận biện hộ những giáo dân Thái Hà trong vụ kiện giới truyền thông vì đã đưa tin không đúng, luật sư Lê Trần Luật và những cộng sự viên của ông đã gặp rất nhiều khó khăn.

photo courtesy of Vietcatholic

Đông đảo giáo dân Thái Hà tập trung cầu nguyện cho Luật sư Lê Trần Luật.

Mới đây nhất, báo Công an TP Hồ Chí Minh ngày 12 tháng 3, có bài viết về văn phòng luật sư pháp quyền với nhan đề: “Gian Dối, Quịt Tiền Đối Tác”. Hiền Vy đã liên hệ với luật sư Lê Trần Luật và vài thân chủ của ông để tìm hiểu vụ việc. Mời quí thính giả theo dõi.

Trả lời câu hỏi có biết lý do nào mà tờ báo Công An đã đăng bài viết đó không, LS Lê Trần Luật cho biết:

“Việc báo Công An đưa tin thì tôi chưa biết họ nhằm mục đích gì, nhưng một số khách hàng báo với tôi rằng cơ quan công an đến tận nơi nhà họ, và đến rất nhiều lần, nói với họ rằng tôi là một người khích động quần chúng chống lại nhà nước, là một người tội phạm về chính trị và bảo họ bây giờ thanh lý hợp đồng với tôi đi, còn không thì gửi đơn tố cáo thì cơ quan công an sẽ giúp cho.

Còn giả thuyết rằng nếu tôi là một người ăn quịt tiền như báo Công an đưa tin thì chắc công an đã bắt tôi từ lâu rồi chứ tại sao bây giờ họ không bắt tôi mà cứ đi đến hết khách hàng này tới khách hàng khác của tôi để bảo rằng; ‘hãy tố cáo ông Luật đi vì ông đó là luật sư mà khích động quần chúng chống lại nhà nước

Lừa đảo, vi phạm hợp đồng?

Một thân chủ của luật sư Luật là bà Thủy đã xác nhận việc công an xúi dục bà đi tố cáo văn phòng luật sư pháp quyền, nhưng bà từ chối làm việc đó:

“Nhưng tôi không làm vậy, tôi chỉ nói rằng đây là tôi thuê, thì bây giờ mà như vậy thì tôi không muốn phiền phức, tôi sẽ cắt hợp đồng thôi. Tôi sẽ không làm gì để gây khó khăn cho luật sư Luật đâu, tôi nói thẳng với công an là hợp đồng ngưòi ta không sai. Không có làm được cái gì với người ta hết trơn á, nhưng công an nói nếu tôi không làm đơn kiến nghị lấy lại tiền thì nữa sau này, mà luật sư Luật có đi ở tù thì tôi có làm đơn gởi thì họ sẽ không nhận hồ sơ. Tôi nói với họ là cái này người ta (luật sư Luật) chưa có sai, tại vì thời hạn chưa có tới thành thử kêu tui làm đơn thưa, tôi không có thưa, dứt khoát là tôi không thưa”.

Bà Thủy cũng cho biết là công an của thành phố Hồ Chí Minh đã ra tận Phú Quốc để xúi dục bà, và làm phiền đến gia đình bà:

“Trong Sàigòn ra tới hai ba người luôn, rồi hợp với công an huyện, rồi công an thị trấn tùm lum. Họ tới nhà tôi hoài, hỏi này kia, mà ông xã tôi thì không muốn dính dáng tới công an nên ổng nói tạm chấm dứt hợp đồng đi, chứ không họ cứ đến nhà hỏi han hoài, điện thoại hoài.”

Một thân chủ khác của văn phòng luật sư pháp quyền là bà Loan, nói rằng, bà không muốn bị phiền phức:

“Họ nói nhưng mình đâu có làm, họ biểu mình làm đơn kiến nghị. Chuyện này tôi không muốn dính dáng gì hết trơn, mất công công an hỏi tới hỏi lui phiền phức lắm.”

Chồng bà Loan thì cho biết là dù chưa có sự sai trái nào từ văn phòng luật sư pháp quyền, nhưng ông cũng bỡ ngỡ khi công an nói rằng luật sư Lê Trần Luật đang dính líu đến chính trị và có khả năng dạng lừa đảo:

“Họ nói tình hình của luật sư Luật là bây giờ dính dáng vô vấn đề chính trị gì đó và như vậy là có khả năng ông Luật này dạng lừa đảo, nên bây giờ phải làm tờ kiến nghị giao cho họ để họ tổng hợp tất cả những vấn đề mà luật sư Trần Luật hoạt động với ai ở Phú Quốc này.

Theo tôi thì ông Luật này cũng chưa có lừa đảo mình cái gì, nhưng nghe họ nói thì đôi lúc cũng bỡ ngỡ, cũng giật mình nên cũng muốn hỏi luật sư Luật coi tình trạng như thế nào, có duy trì được hợp đồng hay phải đi đến vấn đề thanh lý hợp đồng.

Chuyện với ông Luật thì mình làm sao thì làm chứ chưa vi phạm gì vấn đề hợp đồng. Trong hợp đồng có ghi rõ ràng là trong vòng 8 tháng, thì thời gian cũng chưa được 8 tháng thì mình đâu có lý do gì để nói người ta lừa đảo.”

Nguy cơ phá sản

Việc nhà nước cố tình gây áp lực cho thân chủ của luật sự Lê Trần Luật đã gây rất nhiều khó khăn cho văn phòng Luật sư Pháp quyền của ông.

“Thật sự là họ gây một áp lực rất là lớn đối với tôi. Vấn đề là nhà nước bằng cái cách là sách động đến khách hàng và yêu cầu họ hoặc là thanh lý với tôi, hoặc là tố cáo tôi. Điều đó dẫn tôi đến một nguy cơ là phá sản hoàn toàn, bởi vì công việc của tôi đang thực hiện như thế, về mặt lý thuyết thì trong hợp đồng có ghi rõ là tôi đang thực hiện công việc, thì nếu khách hàng đơn phương chấm dứt hợp đồng, thì sẽ mất tiền. Tuy nhiên việc họ tố cáo tôi sẽ làm cho cơ quan công an có cơ sở mời tôi đi làm việc liên tục, và khi khách hàng mà không còn lòng tin với tôi nữa thì sẽ dẫn đến nguy cơ là tôi bị phá sản hoàn toàn.”

Bà Thủy cho biết vì công an không cho luật sư Lê Trần Luật và cộng sự viên của ông tự do đi lại nên họ không thể đại diện bà được nữa, vì vậy mặc dù rất tin tưởng luật sư Lê Trần Luật, bà Thủy đã phải ký giấy hủy bỏ hợp đồng, bà chia sẻ:

“Đâu có cho người ta đi đâu mà làm đại diện. Luật sư Luật có ý muốn nhờ luật sư khác để đứng ra kiện tụng cho tôi, nhưng tôi nói luật sư Luật đừng lo cho tôi, để đầu óc sáng suốt mà đấu tranh. Tại vì tôi làm ăn, tôi không muốn dính dấp, thành thử ra tôi phải đến gặp luật sư Luật rồi và nói là tạm gác lại chuyện này đi.

Chuyện báo đăng như vậy làm mất đi khách hàng của luật sư nhiều lắm, thất thoát cho luật sư Luật nhiều lắm, tội nghiệp lắm … ”

Trước việc nhà nước dùng những hành động không trong sáng để làm mất uy tín của ông, cũng như để làm tê liệt sự hoạt động của văn phòng Luật sư Pháp quyền, luật sư Lê Trần Luật mong mỏi sự tiếp tay của các cơ quan truyền thông:

“Chúng ta đã nhìn thấy rõ cái bản chất, cái cách thức làm việc của cơ quan an ninh ViệtNam, là họ không dùng một phương pháp chính trực. Ví dụ như tôi là một người vi phạm thì họ hãy khởi tố và bắt tôi, đằng này họ không làm theo phương cách ấy mà họ lại đi khích động khách hàng của tôi để dẫn tôi tới tình trạng khó khăn về kinh tế. Tôi mong các phương tiện truyên thông hãy hỗ trợ tôi để đưa tin cho công luận thấy rõ bản chất của cơ quan an ninh đã hành xử lén lút như thế nào.”

Hiền Vy, thông tín viên RFA