Tác giả Nghị quyết của Nghị viên Châu Âu phản biện quan điểm của Bộ ngoại giao VN




Trà Mi, phóng viên đài RFA
2008-10-29

Ngay sau khi Nghị Viện Châu Âu thông qua Nghị Quyết đề nghị Ủy Ban và Hội Đồng Châu Âu đặt tình trạng nhân quyền của Việt Nam làm điều kiện để tiếp tục ký kết Hiệp Ước Hợp Tác với Hà Nội, Bộ Ngoại Giao Việt Nam lập tức lên án Nghị Quyết này là sai trái, làm ảnh hưởng mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước thuộc khối Liên Minh Châu Âu.

Phản hồi của những người ra Nghị Quyết ra sao? Trà Mi ghi nhận qua cuộc phỏng vấn ông Marco Cappato, thành viên Quốc Hội Châu Âu, là tác giả chính của Nghị Quyết vừa được Nghị Viện Châu Âu thông qua hôm 22/10/2008.

Trước tiên, ông Cappato trình bày nguyên nhân của Nghị Quyết:

Tầm quan trọng của Nghị Quyết

Ông Marco Cappato: Mọi việc bắt đầu khi tôi và ông Marco Pannella thuộc đảng Cấp Tiến chủ trương bất bạo động của Italy yêu cầu Tiểu Ban về Nhân Quyền trong Quốc Hội Châu Âu trình bày các đánh giá của họ về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam, vào khi một hiệp ước mới về hợp tác mậu dịch giữa Liên Minh Châu Âu với Việt Nam sắp được ký kết.

Đáng tiếc rằng chúng tôi nhận được nhiều nguồn thông tin về vi phạm nhân quyền của chính phủ Hà Nội trong khi Liên Minh Châu Âu ngày càng ít lưu tâm đến thực trạng nhân quyền tại Việt Nam, mà tình hình thực tế lại không có dấu hiệu nào cải thiện, ngược lại, còn có chiều hướng tệ hơn, cụ thể như các quyền tự do tôn giáo, tự do bày tỏ quan điểm của người dân tại Việt Nam.

Trong phiên họp toàn thể của Nghị Viện Châu Âu, đảng cực hữu chúng tôi cũng đã yêu cầu Ủy Ban Châu Âu và nước chủ tịch luân phiên của Hội Đồng Châu Âu hiện giờ là Pháp cập nhật thông tin về tiến trình của các cuộc thương thuyết ký kết Hiệp Ước Hợp Tác với Việt Nam.

Dựa trên tất cả các cơ sở đó, chúng tôi quyết định soạn thảo Nghị Quyết về quan hệ giữa EU và Việt Nam, trình ra trước Nghị Viện, và đã được thông qua với tỷ lệ áp đảo là 479 phiếu thuận, 21 phiếu chống, và 4 phiếu trắng.

Trà Mi: Xin ông cho biết tầm quan trọng của Nghị Quyết này ra sao, thưa ông?

Ông Marco Cappato: Trong nội dung các Hiệp Ước Hợp Tác Kinh Tế và Mậu Dịch giữa Liên Minh Châu Âu với các nước, luôn luôn có điều khoản về nhân quyền, ghi rõ rằng các thỏa thuận có thể bị đình hoãn hoặc thậm chí bị hủy bỏ, nếu có các vi phạm về nhân quyền. Đáng tiếc là chưa có một cơ chế giúp bảo đảm điều khoản này được thi hành cụ thể trong thực tế.

Vì vậy, nhân tiến trình các cuộc thương lượng ký kết Hiệp Ước Hợp Tác mới giữa EU và Việt Nam đang diễn ra, chúng tôi đề nghị với Hội Đồng và Ủy Ban Châu Âu nên áp lực Việt Nam cải thiện nhân quyền trước khi muốn hoàn tất việc ký kết này.

Ý nghĩa quan trọng của Nghị Quyết này chính là Nghị Viện Châu Âu đã chính thức lên tiếng rõ ràng, đặt điều kiện với đôi bên tham gia ký kết phải xem xét đến việc cải thiện nhân quyền của Hà Nội trước khi bàn đến sự hợp tác.

Những yêu cầu cụ thể được liệt kê trong Nghị Quyết bao gồm nhà nước Việt Nam phải hợp tác tích cực với các cơ quan nhân quyền của Liên Hiệp Quốc bằng cách cho phép các đặc sứ vào quan sát thực trạng, cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được tự do tiến hành các sinh hoạt tín ngưỡng mà không bị sự can thiệp, điều khiển của nhà nước, hủy bỏ các luật định hình sự hóa những ý kiến bất đồng, cũng như phóng thích các tù nhân chính trị và tôn giáo.

Vai trò của Nghị Viện Châu Âu

Trà Mi: Để những yêu cầu này là điều không thể chối cãi đối với chính quyền Hà Nội thì Nghị Viện Châu Âu đóng vai trò ra sao, thưa ông?

Ông Marco Cappato: Quốc Hội Châu Âu về mặt nào đó, có vai trò độc lập hơn Ủy Ban và Hội Đồng Châu Âu, dù chúng tôi không có quyền khiến những điều trong Nghị Quyết này được thi hành vào thực tế, nhưng điều đáng nói là khi các thành viên trong Quốc Hội Châu Âu được thông tin đầy đủ, thì đa số đã nhận rõ được thực trạng nhân quyền tại Việt Nam, mà bằng chứng là số phiếu ủng hộ thông qua Nghị Quyết này áp đảo gấp mấy chục lần số phiếu chống.

Trà Mi: Ngay khi Nghị Quyết này được thông qua, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lên tiếng tố cáo đó là một việc làm sai trái, đặt ra với những điều kiện không có căn cứ làm ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu. Ý kiến của ông ra sao?

Ông Marco Cappato: Tôi cho rằng với chúng tôi, điều quan trọng là mối quan hệ đối với người Việt Nam. Nói thẳng ra, những gì quốc tế đang kêu gọi là vì quyền lợi của chính nhân dân Việt Nam, dĩ nhiên nó có thể trái ý với bộ máy cầm quyền Hà Nội, nhưng những gì chúng tôi làm không hề mang mục đích như cái gọi là chống đối “kẻ thù”, mà là giúp họ cải thiện. Và nếu như họ thật sự cải thiện thì chúng tôi sẽ là những quốc gia tiên phong công nhận những thành tích ấy và thay đổi cách nhìn đối với nhà cầm quyền Việt Nam.

Dĩ nhiên thái độ phản ứng của chính quyền Hà Nội là điều chúng ta có thể đoán biết trước, nhưng tôi thật lòng hy vọng rằng sau phản ứng tức thời này, họ sẽ suy ngẫm lại kết quả mà toàn bộ Nghị Viện chúng tôi đã bỏ phiếu thông qua, hoặc chí ít là đáp ứng một vài những mối quan tâm chính yếu của chúng tôi. Còn như ngược lại, tôi cho rằng quan điểm và cách nhìn của quốc tế về tình hình nhân quyền tại Việt Nam sẽ chẳng thể thay đổi được.

Thực trạng nhân quyền tại Việt Nam

Trà Mi: Thế nhưng Bộ Ngoại Giao cho rằng những lời tố cáo này không phản ánh đúng tình hình ở Việt Nam. Vậy làm thế nào có thể chứng minh sự lên án đó là dựa trên các căn cứ thực tế đáng tin cậy?

Ông Marco Cappato: Sẽ rất thú vị nếu như họ đưa ra được những thông tin hoặc những bằng chứng xác thực chứng minh điều ngược lại. Những gì chúng tôi nêu lên trong Nghị Quyết dựa trên các thông tin từ giới ngoại giao quốc tế, các tổ chức NGO trên thế giới, và cả từ các nhân chứng trực tiếp.

Ví dụ như, nhà cầm quyền Hà Nội chỉ đưa ra lời nói phủ nhận các vấn đề nhân quyền tại Tây Nguyên, nhưng tại sao họ lại không cho phép quốc tế được tự do tiếp cận khu vực để đánh giá và tìm hiểu tình hình? Hoặc khi các trường hợp bị đàn áp, với đầy đủ chi tiết về tên tuổi nạn nhân, ngày giờ bắt bớ được nêu rõ, tại sao nhà nước Việt Nam không đưa ra các bằng chứng thuyết phục để phản hồi, để lý giải cụ thể, nếu cho rằng thông tin đó không xác thực?

Tóm lại, lời tuyên bố của Bộ Ngoại Giao chỉ là luận điệu tuyên truyền của nhà nước Việt Nam, những lý luận hoàn toàn không có cơ sở thuyết phục.

Trà Mi: Ngược lại, Hà Nội tố cáo các nước phương Tây đang lợi dụng chiêu bài “nhân quyền” để can thiệp vào chuyện nội bộ của Việt Nam, đồng thời khẳng định rằng không một quốc gia nào có quyền áp đặt cái gọi là “khuôn mẫu nhân quyền” của họ lên nước khác. Ông sẽ phản hồi như thế nào?

Ông Marco Cappato: Điều này có thể đúng cách đây hàng trăm năm trước, khi nhân loại chưa có những tiêu chí toàn cầu về quyền con người. Đồng ý rằng không có gì tuyệt đối, không có dân chủ tuyệt đối mà cũng không có độc tài tuyệt đối. Ở nước Ý của tôi cũng có thể có vài vấn đề về nhân quyền và luật pháp.

Cho nên chẳng bao giờ có chuyện rằng quốc gia nào đưa ra một khuôn mẫu làm bài học cho quốc gia nào cả, nhưng ở Việt Nam có những sự vi phạm nhân quyền và dân chủ nghiêm trọng một cách có hệ thống, những quyền căn bản của con người được cả thế giới công nhận qua các Hiệp Ước Quốc Tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Khi một nhà nước đàn áp quyền của người dân, cầm tù những tiếng nói bất đồng thì họ giải thích như thế nào đây? Đấy có phải là văn hóa, là lối sống của người Việt Nam chăng? Tôi không nghĩ vậy, mà theo tôi, đó đơn giản chỉ là những hành động của giới cầm quyền đàn áp, sách nhiễu nhân quyền của người dân Việt Nam mà thôi.

Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn ông Marco Cappato đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn đặc biệt này.


Lách khỏi “lề phải”: Toàn bộ Ban Biên tập tờ Ðại Ðoàn Kết bị cách chức




Việt Nam hiện có 813 ấn phẩm của 634 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh và đài truyền hình với khoảng 15,000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, song tất cả đều của các tổ chức Ðảng, các cơ quan nhà nước và những đoàn thể phụ thuộc Ðảng CSVN. Chưa có tờ báo nào hoàn toàn độc lập với hệ thống chính trị hiện hành. “Tự do báo chí” ở Việt Nam là phải tuân thủ tất cả chỉ đạo của Ban Tuyên Giáo Trung Ương Ðảng CSVN. Bất tuân sẽ bị tước quyền hành nghề.

Hà Nội (NV) - Theo các nguồn thạo tin từ Việt Nam, hôm Thứ Năm 23 tháng 10, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, cơ quan chủ quản tờ Ðại Ðoàn Kết đã bỏ phiếu, để xác định hình thức kỷ luật đối với các thành viên trong ban biên tập tờ Ðại Ðoàn Kết. Kết quả, ông Lý Tiến Dũng, tổng biên tập và ông Ðặng Ngọc, phó tổng biên tập cùng bị “cảnh cáo”, đồng thời phải “chuyển công tác”. Nói cách khác, cả hai sẽ không còn cơ hội làm báo.

Hai nhân vật kể trên bị kỷ luật vì có hàng loạt “sai lầm”: Tự động đặt tựa “Cần phải xóa bỏ bao cấp về chính trị” khi trích đăng tham luận của Linh mục Nguyễn Thiện Cẩm (ủy viên Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, phó chủ nhiệm Ủy Ban Ðoàn Kết Công Giáo), tại hội nghị của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, hồi đầu năm 2007. Chống chỉ đạo của Ban Tuyên Giáo Trung Ương Ðảng CSVN bằng việc đăng thư góp ý của Tướng Võ Nguyên Giáp về việc không nên đập bỏ Hội Trường Ba Ðình. Tự ý sửa đổi manchette của báo Ðại Ðoàn Kết từ “Cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam” thành “Diễn đàn của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam”. Riêng ông Lý Tiến Dũng còn phạm thêm một “khuyết điểm” khác, đó là dám phê phán những chuyện bất thường xảy ra tại Ban Tuyên Giáo Trung Ương (thư phê phán này bị các thế lực “thù địch, phản động” ở nước ngoài khai thác).

Cũng theo các nguồn thạo tin, trong tuần này, ông Vũ Trọng Kim, tổng thư ký mới của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam sẽ tiến hành “sắp xếp” lại tờ Ðại Ðoàn Kết. Theo dự kiến, ông Ðinh Ðức Lập, phó ban tuyên huấn của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam sẽ trở thành tổng biên tập mới của tờ báo này.

Những “sai phạm” dẫn tới việc cách chức hai thành viên chủ chốt trong ban biên tập tờ Ðại Ðoàn Kết đều là “sai phạm” cũ. Nay được “tổng hợp” để “xử lý” một lần.

Ðại Ðoàn Kết là hậu thân của tờ “Cứu Quốc”, cơ quan ngôn luận của Tổng Bộ Việt Minh ra đời năm 1941. Sau khi ông Lý Tiến Dũng trở thành tổng biên tập, hai năm qua, tờ Ðại Ðoàn Kết có nhiều nội dung đáng quan tâm vì “thoát ly” lề phải. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc phê phán và đòi truy cứu trách nhiệm ông Lê Thanh Hải, bí thư Thành Ủy Sài Gòn, ủy viên Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, về những vấn đề có liên quan đến hàng loạt sai phạm khi thực hiện khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Ông Lê Thanh Hải là em rể bà Trương Mỹ Hoa, cựu ủy viên Bộ Chính Trị (một nhân vật liên quan trực tiếp đến các sai phạm của Tamexco vào thập niên 1990, song sau đó, chỉ có Phạm Huy Phước, giám đốc Tamexco bị tử hình). Khi còn là chủ tịch thành phố Sài Gòn, ông Lê Thanh Hải được xem là nhân vật đứng đàng sau hàng loạt sai phạm trong việc thực hiện các công trình hạ tầng do lực lượng Thanh Niên Xung Phong Sài Gòn đảm nhận vai trò nhà thầu.

Ông Lê Thanh Hải cũng được xem là nhân vật chính trong vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, trưởng ban quản lý Dự án đại lộ Ðông Tây, nhận hối lộ 820 ngàn USD từ CPI - một tập đoàn tư vấn xây dựng của Nhật. Tuy chính phủ Nhật nhiều lần yêu cầu Việt Nam hợp tác điều tra vụ này, song phía Việt Nam chỉ mới hứa sẽ xem xét. Một số nguồn thạo tin kể rằng, sau khi vụ đưa hối lộ bị báo chí nước ngoài phanh phui (báo chí Việt Nam bị cấm đưa tin, viết bài về vụ này), dù thiệp mời đã được phát rộng rãi, song đám cưới giữa con trai ông Hải và con gái ông Sĩ vẫn bị hai gia đình tạm hoãn vô thời hạn.

Hồi cuối năm ngoái, trong một lá thư gửi ông Trương Tấn Sang, thành viên Bộ Chính Trị và là ủy viên thường trực Ban Bí Thư Trung Ương Ðảng CSVN, được phổ biến rộng rãi trên Internet, ông Lý Tiến Dũng công khai chỉ trích gay gắt Ban Tuyên Giáo Trung Ương Ðảng CSVN: “Tôi nghĩ kiểu đe nẹt, ngăn chặn báo chí một cách vô lối như trường hợp không cho đăng thư của Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua, bằng động tác nhắc nhở 'dù là ai cũng không được đăng, phát' (bản thông tin công tác tuần số 39 của Ban Tuyên Giáo Trung Ương) là điều không nên. Cho đó là ‘kỷ luật thông tin’ lại càng không nên” Cũng trong thư này, ông Lý Tiến Dũng cho rằng: “Dư luận hiện nay trong nhân dân, trong đội ngũ trí thức, văn nghệ, báo chí... ngày càng nhiều và bất lợi, khi chúng ta quy tụ về để giữ các vị trí lãnh đạo Ban Tuyên Giáo Trung Ương quá nhiều những người làm không được việc, không được đồng chí và nhân dân ủng hộ ở các nơi khác”.

Ông Lý Tiến Dũng từng bị Ban Tuyên Giáo Trung Ương Ðảng CSVN đề nghị “truy cứu lý lịch và truy cứu việc bổ nhiệm vào chức vụ tổng biên tập”. Ðổi lại, ông Dũng là tổng biên tập đầu tiên công khai chỉ trích Ban Tuyên Giáo Trung Ương.

Năm 2006, Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương và Ban Khoa Giáo Trung Ương của đảng Cộng Sản Việt Nam được sáp nhập thành Ban Tuyên Giáo Trung Ương. Ðây là cơ quan chuyên giám sát và chỉ đạo tất cả các vấn đế liên quan đến báo chí, văn hóa, nghệ thuật ở Việt Nam. Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương là ông Tô Huy Rứa với 9 phó ban, trong đó có ông Hồng Vinh và ông Ðào Duy Quát. Ông Hồng Vinh từng cấm báo chí CSVN đưa tin về việc Lương Quốc Dũng, phó chủ nhiệm Ủy Ban Thể Dục Thể Thao (chức vụ ngang hàng thứ trưởng) hiếp dâm trẻ em chỉ vì tư lợi. Còn ông Ðào Duy Quát từng bị tố cáo nhiều lần về khả năng, đặc biệt là tư cách (chuyên sàm sỡ với phụ nữ).

Thư của ông Lý Tiến Dũng được xem là “giọt nước làm tràn ly”. Ngày 16 Tháng Giêng năm nay, báo chí CSVN đưa tin: “Ban Bí Thư Trung Ương Ðảng vừa có quyết định để ông Hồng Vinh và ông Ðào Duy Quát thôi giữ chức phó Ban Tuyên Giáo Trung Ương kể từ 1 Tháng Giêng năm 2008”, tuy nhiên: “Ông Hồng Vinh vẫn tiếp tục đảm nhiệm chức vụ phó ban chỉ đạo thông tin đối ngoại và đảm trách cương vị phó chủ tịch hội đồng lý luận văn nghệ trung ương. Còn ông Ðào Duy Quát vẫn tiếp tục giữ cương vị tổng biên tập báo điện tử đảng Cộng Sản Việt Nam”. Riêng ông Lý Tiến Dũng vô sự trong 10 tháng thì bị cấm làm báo. (G.Ð)

Nguồn: Nguoi Viet Online

MẠNG LƯỚI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM CÔNG BỐ KẾT QUẢ GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM NĂM 2008


Little Saigon – Hôm nay, ngày 29-10-2008, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (MLNQVN) đã công bố danh sách các nhân vật và tổ chức tại Việt Nam sẽ được vinh danh và trao tặng Giải Nhân Quyền Việt Nam năm 2008. Danh sách gồm có hai cá nhân và một tổ chức, đó là Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải – có bút hiệu là Hoàng Hải và Điếu Cày, và Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận. Những vị nầy đã được bầu chọn từ một danh sách 10 ứng viên do 12 tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đề cử.

Giải thưởng nầy do MLNQVN thành lập từ năm 2002 nhằm tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động của những người đã chấp nhận hy sinh, kể cả mạng sống của chính mình, cho lý tưởng nhân quyền và dân quyền của nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, Giải Nhân Quyền Việt Nam còn nhằm bày tỏ sự liên đới, hậu thuẩn và quyết tâm của người Việt khắp nơi trong nỗ lực đấu tranh giành lại quyền làm người cho mọi người dân Việt Nam.

Từ ngày thành lập đến nay, MLNQVN đã tuyên dương và trao tặng Giải Nhân Quyền Việt Nam cho những nhà đấu tranh hàng đầu cho nhân quyền tại Việt Nam, như Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý (2002), Ký giả Nguyễn Vũ Bình, Luật sư Lê Chí Quang, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn (2003), Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế (2004), Cụ Lê Quang Liêm, Linh Mục Phan Văn Lợi, Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ (2005), Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Giáo Sư Nguyễn Chính Kết (2006), Giáo sư Hoàng Minh Chính, Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân (2007).

Lễ trao Giải Nhân Quyền Việt Nam năm nay sẽ được long trọng tổ chức tại Tòa Thị Chính, thành phố Westminster, California, vào lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 14-12-2008, nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày Liên Hiệp Quốc công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, đánh dấu một bước tiến vô cùng quan trọng của cộng đồng nhân loại trong việc bảo vệ và đề cao quyền làm người khắp nơi trên thế giới.

Giải Nhân Quyền Việt Nam gồm một bản tuyên dương và hiện kim 6.000 Mỹ kim. MLNQVN kêu gọi và hân hoan đón nhận sự hỗ trợ tinh thần và tài chánh của đồng hương để duy trì chương trình ý nghĩa nầy.

Sau đây là tóm tắt thành tích đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ của những cá nhân và tổ chức đã được bầu chọn năm 2008:

- TT Thích Thiện Minh thế danh là Huỳnh văn Ba, sinh năm 1955 tại tỉnh Bạc Liêu. Thượng Tọa thọ giới sa di năm 1972 tại chùa Long Phước Bạc Liêu. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước chính sách đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền của CSVN, Thượng Tọa đã dấn thân tranh đấu đòi lại quyền tự do căn bản cho người dân. Thầy bị chế độ CSVN bắt ngày 28 tháng 3 năm 1976 và truy tố ra tòa án nhân dân với tội danh âm mưu lật đổ chế độ, và xử án chung thân. Năm 1986, tại trại tù Xuân Phước Thượng Tọa bị tra tấn dã man. Đặc biệt, CSVN đã mở phiên tòa trong trại kết tội và Thầy bị thêm 1 bản án chung thân nữa. Năm 2004, CSVN đã phải để đại diện của Liên Hiệp Quốc đặc trách về sự bất khoan dung tôn giáo ( U.N special Rapporteur on Religeous Intolerance) là Ông Abdelfattah Amor, đến trại tù thăm và phỏng vấn Thượng tọa Thích Thiện Minh. Đặc phái viên Liên Hiệp Quốc trong buổi họp báo quốc tế đã vinh danh TT Thích Thiện Minh là “Người tù lương tâm của Việt Nam”. Dưới áp lực của công luận quốc tế, CSVN phải trả tự do cho Thượng tọa vào dịp tết Ất Dậu 2005. Sau 26 năm tù TT Thích Thiện Minh vẫn không ngừng đấu tranh đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho các tù nhân chính trị và tôn giáo còn đang bị giam cầm trong các trại tù CSVN. Tháng 10 năm 2006, TT Thích Thiện Minh đã cùng với các cựu tù nhân chính trị và tôn giáo khác thành lập Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam (Vietnamese Political and Religeous Prisoners Frienship Association) ngay ở trong nước để tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của các cựu tù nhân cũng như, góp thêm một tiếng nói đấu tranh dân chủ trong ôn hòa bất bạo động để buộc CSVN phải trả tự do và quyền sống tối thiểu của một con người cho 85 triệu người dân Việt Nam.

- Nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, thường được biết đến qua bút hiệu Hoàng Hải và Điếu Cầy, sinh năm 1953, nguyên quán Hải Phòng, Hoàng Hải/Điếu Cày là một khuôn mặt can trường, nếu không nói là hàng đầu trong giới blogger và nhà báo tự do trong nước. Ông thành lập Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, quy tụ các cây bút tình nguyện viết về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân và lên tiếng tranh đấu cho họ, những người bị thiệt hại do chính sách trưng dụng đất đai, nhà cửa và đối xử bất công của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Ông thành lập hai trang mạng: một mang tên “Dân Báo”, đăng tải phóng sự và bài viết do những thành viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do thực hiện; và mạng thứ hai mang tên “Điếu cày”, ghi lại những suy nghĩ cá nhân về thực trạng xã hội Việt Nam hiện tại và sưu tập những bài viết đáng chú ý về Việt Nam. Ngoài ra ông đã tham gia các cuộc biểu tình tuần hành lên án chính sách ngoại giao gây hấn của Trung Cộng ở Hoàng Sa và Trường Sa vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008. Sau các cuộc biểu tình chống Trung Cộng, bộ máy công an liên tục quấy nhiễu ông, bằng cách triệu tập đến đồn công an làm việc, bất chấp giờ giấc sinh hoạt bình thường của một công dân tự do, hòng tạo áp lực và khủng bố tinh thần để ông, buộc ông chấm dứt các hoạt động xã hội và đấu tranh của mình. Ông bị bắt ngày 19/4/2008 và bị đưa ra tòa về tội danh ngụy tạo “trốn thuế”. Ông bị tuyên án 2 năm rưỡi tù giam vào ngày 10-9-2008. Nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế và Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã lên tiếng phản đối, nhất là Hội Nhà Báo Không Biên Giới đã đòi Hà Nội phải trả tự do cho Ông.

- Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận, công trình tập thể của nhiều thành viên Khối 8406 với Chủ nhiệm là Linh mục Chân Tín, Ban Biên tập gồm có Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Phan Văn Lợi, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Ký giả Nguyễn Khắc Toàn và một số cộng sự viên khác.

Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận là bước đột phá của các nhà dân chủ tại Việt Nam sau khi Khối 8406 ra đời (ngày 08-04-2006), nhằm giành lại quyền tự do thông tin ngôn luận cho toàn dân qua việc phổ biến báo chí tư nhân trên giấy ngay trong nước. Với 61 số báo có tôn chỉ rõ ràng (đấu tranh hòa bình bất bạo động, vạch trần mặt thật Hồ Chí Minh, giải thể chế độ cộng sản độc tài), có nội dung đa dạng (bàn về luật pháp, tôn giáo, chính trị, xã hội trong 32 trang khổ giấy A4), với cung cách thẳng thắn, mạnh mẽ, phát hành liên tục mỗi nửa tháng khắp cả ba miền và tặng miễn phí cho đồng bào quốc nội, trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn kể từ 15-04-2006 đến nay (số 61 ra ngày 15-10-2008, tổng cộng đã được 2 năm 7 tháng), đó là một thành tích chưa hề có, chứng tỏ được lòng quyết tâm, kiên trì, hy sinh và dũng cảm trong hoạt động tranh đấu cho quyền Tự do Ngôn luận là mũi nhọn hàng đầu của mặt trận Nhân Quyền và Dân Chủ tại Việt Nam.

Hiện nay, người chủ xướng Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận là Lm Nguyễn Văn Lý và người cộng tác biên tập là Ls Nguyển Văn Đài đều đang bị cộng sản cầm tù. Người thay thế chủ động là Lm Phan Văn Lợi cũng bị cộng sản quản chế theo dõi, đấu tố mạ lỵ, đe dọa trừng phạt, nhiều cộng sự viên khắp cả nước cũng bị cản trở trong việc phát hành, nhiều độc giả của tờ báo cũng bị sách nhiễu cấm cản. Tất cả là nhằm triệt hạ cái cơ quan tranh đấu cho quyền được thông tin trung thực, được phát biểu thẳng thắn, được trình bày rõ ràng về những vấn đề quan trọng của đất nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản hiện nay. Thế nhưng ban biên tập và các cộng tác viên vẫn quyết tâm duy trì tờ báo cho đến cùng.

Nhà cầm quyền VN phủ nhận về các tai họa kinh tế




Long S. Le, Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông số tháng 10/08

Phan Lưu Quỳnh lược dịch

Việt Nam đang gặp khó khăn. Ở khoảng 23% trong chín tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát của nước này đang ở mức cao nhất kể từ năm 1991, lúc mà lạm phát tăng đến 67%. Tỷ lệ lạm phát nhảy vọt lên một mức cao 28.3% trong tháng Tám, từ mức 25.2% hồi tháng Năm. Tương tự, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cho đến nay bị kém đi ở mức hơn 24% trong năm nay, trong khi đó chỉ số CPI từ 2001 đến 2007 nằm xa dưới tỷ lệ tăng trưởng của tổng sản lượng nội địa (GDP). Lạm phát và giá cả cao ngất rõ ràng đã bắt đầu làm mất đi giá trị của những thành quả xóa đói giảm nghèo vừa đạt được mới đây. Hiện thời thì hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam chỉ bảo bọc được cho 11% lực lượng lao động. Tỷ lệ dân số sống dưới mức một đô la một ngày ở khoảng 20%, hoặc gấp đôi cách đây một năm. Phần lớn vì nạn lạm phát, con số các cuộc đình công của công nhân ở các xí nghiệp do người nước ngoài làm chủ tại TPHCM đã tăng hơn 300% trong hai năm qua, theo thống kê của nhà nước.

Nhưng nhà nước cộng sản Việt Nam, lo ngại về sự ổn định chính trị và tính chính đáng của họ, đã kết luận rằng tình trạng hiện thời là do kém may mắn, chứ không phải vì chính sách xấu. Vì thế, nhà nước phải chống đỡ các khó khăn kinh tế vĩ mô và thi hành các biện pháp chống lạm phát để đưa đất nước trở lại con đường phục hồi kinh tế.

Tại một hội nghị bàn tròn với các chuyên gia kinh tế Việt Nam vào ngày 13/9/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh “tình trạng xáo trộn kinh tế thế giới” là nguồn gốc gây ra các khó khăn kinh tế cho Việt Nam trong năm nay. Trong khi nhìn nhận tình trạng kinh tế vẫn còn bấp bênh, ông Dũng mạnh mẽ cho rằng các biện pháp của nhà nước đã có hiệu lực, vì tỷ lệ lạm phát hàng tháng xuống còn 1.6% trong tháng Tám từ mức 3.9% hồi tháng Năm; chỉ số CPI chỉ tăng có 0.18% trong tháng Tám (mức gia tăng hàng tháng thấp nhất kể từ đầu năm 2008); và mức thâm thủng mậu dịch trong tháng Chín được tiên đoán là sẽ tăng ở một nhịp độ chậm hơn so với tháng Tám, khi mức thâm thủng đó giảm xuống còn 500 triệu từ mức 900 triệu đô la. Thêm nữa, theo ông Dũng, thì quyết định tăng giá xăng dầu hồi tháng Bảy thêm 31% đã không làm tăng tỷ lệ lạm phát hoặc chỉ số CPI như được dự đoán. Một số người đã nghĩ rằng chỉ số CPI cho tháng Tám có thể sẽ cao đến 3%.

Trong buổi họp kín này, một vài chuyên gia từ các lò suy nghĩ “độc lập” hơn đã nêu lên nhiều thắc mắc cơ bản về các vấn đề nằm bên dưới nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, bao gồm các biện pháp không mấy thỏa đáng để bảo đảm chất lượng tăng trưởng kinh tế, không có sự quản trị tốt và tình trạng thiếu thốn công nhân có tay nghề. Tuy nhiên ông Dũng đã lái những nhận xét của họ sang một hướng khác bằng cách nói rằng các nỗ lực để giải quyết các vấn đề này không phải là một ưu tiên và sẽ rất khó thực hiện trong lúc này. Ðiều ưu tiên, theo ông ta, là khuyến khích các địa phương ban ngành nhằm đáp ứng được một mục tiêu tăng trưởng tổng sản lượng nội địa (GDP) 7% cho năm nay.

Ông Dũng sau đó đưa ra một chính sách đại cương ở trên trong một buổi làm việc với các đại diện của các tổ chức quốc tế quan trọng vào ngày 20/9. Ông ta khẳng định rằng các biện pháp của nhà nước sẽ làm giảm bớt lạm phát trong vòng 16 tháng tới đây. Ông ta còn nói rằng điều hợp lý là tiếp tục theo đuổi một mục tiêu tằng trưởng cao nhằm mục đích đem lại sự ổn định cho kinh tế vĩ mô. Ông Dũng cũng nói rõ rằng văn phòng của ông ta đang chuẩn bị đệ nạp một chính sách dự kiến cho Quốc hội để được thông qua. Không đưa ra bất cứ vấn đề cụ thể nào, bản dự kiến được phác thảo để ưu tiên làm giảm lạm phát xuống một tỷ lệ lý tưởng 12% vào năm tới và xuống mức một con số vào tháng 12/2009 hoặc tháng 1/2010, và đưa đất nước quay lại con đường trở thành con cọp kinh tế kế tiếp của Á Châu.

Trên thực tế, dường như có một sự bất mãn đang gia tăng về tình trạng kinh tế của đất nước, đưa đến các cuộc bàn cãi riêng tư về hiệu quả của các giải pháp cuả chính phủ và khả năng của giới lãnh đạo. Nhưng cùng lúc đó, nhiều người tin tưởng rằng nạn lạm phát đã lên đến tột đỉnh và bây giờ nền kinh tế không còn phải đối diện với một sự suy xụp nghiêm trọng nữa. Họ cảm thấy an tâm sau khi giá bán lẻ xăng và dầu cặn được giảm bớt hai lần trong tháng Tám, mặc dù giá cả ở trong nước vẫn còn cao hơn hồi đầu năm gần một phần tư.

Tuy nhiên, nhiều người hiện đang trải qua một mối lo âu về tình trạng kinh tế gia đình mà họ chưa từng thấy trong hơn một thập niên qua. Và dường như có một sự bối rối lầm lẫn ngày càng gia tăng trong quần chúng về tình hình kinh tế trong nước và thế giới, cũng như không có một sự nhất trí nào về việc làm sao để giải quyết .

Ðối với các nhà phân tích thì điều “bí ẩn” bao gồm việc dự báo về tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vì chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ không mấy rõ ràng. Thủ tướng Dũng cũng lựa chọn một lập trường trái ngược –như việc chống lạm phát bằng một “đường lối linh động” để đạt được mức tăng trưởng cao. Ðối với các nhà kinh tế thì có một sự trao đổi giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, Ông Ayumi Konishi, giám đốc Ngân hàng Phát triển Á Châu tại Viêt Nam cảnh báo, “Nếu quý vị nhìn vào các bài học lịch sử của nhiều nước trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thật ra quý vị hầu như sẽ không bao giờ tìm ra được bất cứ một quốc gia nào thành công trong việc vừa kềm chế lạm phát và đồng thời vừa khuyến khích tăng trưởng”.

Quan điểm này đã được công ty tư vấn và nghiên cứu kinh tế Economist Intelligence Unit nhắc lại. Dự báo của Economist Intelligence Unit tiên đoán rằng mức tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ chậm xuống 4.9% cho năm 2008 và 4.6% cho năm 2009, và chỉ số CPI sẽ rơi xuống 15.2% trong năm 2009 từ tỷ lệ 25%. Ðồng thời, Ngân hàng Phát triển Á Châu tin rằng Việt Nam có thể vượt trội qua mức tiên đoán GDP của họ 6.5% cho năm 2008 và 6% cho năm 2009. Nhưng Việt Nam sẽ đạt được những con số như vậy với “cái giá sẽ phải trả cho nạn lạm phát cao hơn và mức thâm thủng mậu dịch ngày càng lớn thêm”, theo ông Konishi cho biết.

Trong trường hợp “xáo trộn kinh tế toàn cầu” là nguồn gốc gây ra những khó khăn cho nền kinh tế Viêt Nam, thì sự xáo trộn đó sẽ không sớm qua khỏi đâu. Ðể cho rõ ràng, thì việc giảm giá thực phẩm cũng như xăng dầu trên thế giới mới đây có nghĩa rằng lạm phát và chỉ số CPI sẽ ít tăng nhanh hơn như dự đoán. Nhưng xáo trộn tài chánh ở thị trường chứng khoán Wall Street được đoán là sẽ có một tác động nào đó trên các cơ sở trong thị trường Việt Nam (thí dụ như các ngân hàng địa phương và tập đoàn quốc doanh lớn đang tìm đối tác và nguồn vốn ngọai quốc). Việt Nam có nhược điểm là dễ bị tổn thương vì nhu cầu thu hẹp của nền kinh tế Hoa Kỳ và sự mất giá của đồng đô la.

Ðiều này có nghĩa là một vài việc tích cực hiện nay –như 9 tháng xuất cảng gia tăng được 39% và đầu tư ngoại quốc đạt mức kỷ lục hơn 40 tỷ đô la– sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Sự suy giảm kinh tế ở Hoa Kỳ và Âu Châu cũng như tỷ lệ lạm phát ngày càng gia tăng ở Phi Luật Tân, Nam Dương, Ấn Ðộ, Trung Quốc và Thái Lan sẽ có thể gây nhiều nguy hại cho các thị trường xuất cảng truyền thống của Việt Nam và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Nói chung thì dường như giới lãnh đạo ÐCSVN không muốn đối diện với sự thật. Cho đến nay thì họ chỉ muốn nhìn nhận các khó khăn chủ yếu là từ bên ngoài và dùng các biện pháp quản lý vá viú và tài trợ. Thêm nữa, họ muốn quay trở lại sự tăng trưởng nhanh chóng nhưng không sẵn sàng thú nhận rằng các tai họa kinh tế hiện thời là hậu quả của một nền kinh tế phát triển qúa nhanh. Rõ rệt nhất là các cơ quan ban ngành, cơ sở hạ tầng và nhân lực đã thiếu hiệu quả trong việc chuyển hóa sự tăng trưởng nhanh chóng này thành sự tăng trưởng có chất lượng.

Việt Nam đúng ra là đã trở thành con cọp kinh tế kế tiếp của châu Á. Nền kinh tế cả nước đã phát triển ở mức trung bình 7.55% mỗi năm trong suốt thập niên qua. Cũng thế, GDP cho mỗi đầu người đã tăng lên 833 đô la trong năm 2007 từ mức 100 đô la của năm 1990. Ðóng góp thêm vào sự tăng trưởng và làm giảm tỷ lệ nghèo đói là thành công của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn FDI. Trong nhiều năm gần đây, Việt Nam đã trở thành quốc gia có nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào lớn nhất đứng hàng thứ 3 trong các thành viên Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN).

Nhưng ở trong cùng một tình huống tương tự thì sự tăng trưởng kỳ diệu của Việt Nam đặt căn bản trên những thay đổi trong quá khứ về việc lựa chọn tư bản chủ nghĩa làm cơ sở của đời sống kinh tế; trên khía cạnh đó thì cả nước đã bắt đầu từ một nền tảng rất thấp. Mặc dù những thay đổi này chắc chắn không có nghĩa là dễ dàng hay ít đau đớn, thì những thay đổi đó không thể nào lập lại được. Hơn nữa, sự tăng trưởng nhanh chóng của đất nước, dù ít hay nhiều, đều được biểu hiện bằng các nguồn năng lực đổ vào, như việc huy động lực lượng lao động ở nông thôn vào công nghiệp hóa, thu hút nguồn FDI, và đầu tư mạnh mẽ.

Sự tăng trưởng kỳ diệu của Việt Nam không đi cùng với những thu thập được thấy rõ ràng về hiệu năng hoặc mức tăng trưởng năng suất lao động Một nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Á Châu cho thấy rằng mức tăng trưởng của Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2004 phần lớn là do kết quả của vốn liếng và sức lao động. Trong khi đó, năng suất nhân tố tổng hợp (total -factor productivity) – dùng để đo lường hiệu năng với vốn liếng và sức lao động được phối hợp với nhau trong việc tạo ra sản lượng kinh tế — bị thuyên giảm xuống còn 16.6% từ 62.1% trong cùng thời gian trên. Ðiều này phác họa cho thấy sự thiếu hiệu quả cuả Việt Nam trong việc xử dụng các nguồn tài nguyên công cộng khan hiếm và khả năng quản trị yếu kém gây ra hậu quả làm các phí tổn giao dịch cao, và chi phí nhân công rẻ không đủ để bù đắp vào năng suất lao động thấp hơn.

Ðể cho chắc chắn, thì các khó khăn kinh tế hiện nay không nhất thiết báo hiệu cho một sự kết thúc của mức tăng trưởng kỳ diệu ở Viêt Nam. Nhưng các khó khăn đó báo hiệu cho giới lãnh đạo đảng về sự cần thiết phải tạo ra một môi trường dẫn đến sự tăng trưởng có chất lượng. Vấn đề đối với môi trường hiện thời là nó bị bao phủ bởi các quyền lợi chính trị xã hội của đảng. Ðó là, trong khi 90% công ăn việc làm được tạo ra và 70% sản lượng công nghiệp được phát sinh ra từ các cơ sở tư nhân không thuộc về nhà nước, thì hệ thống tài chánh của nhà nước lại đối xử phân biệt trong việc phân phối phần lớn tín dụng và nguồn vốn cho các bộ phận thuộc khu vực quốc doanh.

Ở đây, việc thiếu hiệu quả là lượng vốn cần thiết để tạo ra một công việc làm ăn trong một doanh nghiệp nhà nước thì 8 lần cao hơn so với một công ty tư nhân ở trong nước; và khả năng tiết kiệm các chi phí chuyên chở và phục vụ kỹ thuật có thể dễ dàng sẽ đạt được hơn 30%, nếu các đặc quyền khác nhau dành cho các doanh nghiệp nhà nước được huỷ bỏ, theo Ngân hàng Thế giới cho biết. Như nhà khoa bảng Ari Kokko đã ghi nhận, “rất có khả năng là Việt Nam có thể sản sinh ra nhiều lợi ích đáng kể về vấn đề tạo công ăn việc làm và năng suất lao động, nếu họ có thể thiết lập ra một sân chơi đồng đều cho tất cả các loại doanh nghiệp”. Theo một vài ước đoán thì nếu không vì những quyền lợi chính trị được đặt ra để kềm giữ việc tư nhân hóa, thì Việt Nam có thể phát triển ở mức 11% -cũng nhanh chóng như Trung Quốc.

Ðiều được ghi nhận là trong các nền kinh tế đang ở thời kỳ chuyển tiếp –những nền kinh tế phát triển nhanh hơn các chế độ độc tài cộng sản hoặc tư bản– có những chính sách cải cách nào đó mà nhà nước có lẽ sẽ theo đuổi để khuyến khích tăng trưởng kinh tế tốt hơn. Và có những kiểu nhà nước nào đó khá hơn có thể đề ra và thi hành các chính sách cải cách đó một cách rất đều đặn. Một nghiên cứu chuyên đề của James Riedel và William Turley vào năm 1999 –chú trọng vào cuộc cải cách rắc rối của Việt Nam –ghi nhận rằng mức tăng trưởng kinh tế có thể chịu đựng được sẽ đòi hỏi phải tăng cường việc kiểm soát các vấn đề tài chánh, tiền tệ, và thu nhập, cũng như sự minh bạch và tinh thần trách nhiệm. Những rường cột của sự tăng trưởng kinh tế này sẽ được gọi đến khi các nguyên nhân thường gây ra khủng hoảng xuất hiện –chẳng hạn như các khó khăn trong cán cân thanh toán, lạm phát gia tăng hoặc thất thoát thu nhập.

Nhưng khả năng của chính phủ để đưa ra một chính sách cải cách toàn diện chỉ có khi các giao động kinh tế bất lợi hoặc trầm trọng xảy ra làm gián đoạn việc phát triển kinh tế Việt Nam. Kể từ năm 1979, khủng hoảng đã luôn là chất xúc tác chính khiến Việt Nam bỏ rơi chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa chính thống. Nhưng dù là như thế, thì những hậu quả do tình trạng thiếu khả năng đã xảy ra.

Bây giờ, không biết giới lãnh đạo đảng có sẽ một lần nữa lại cho phép cởi mở thêm về chính trị để giải quyết sự khủng hoảng đang xuất hiện hay không, thì dường như không chắc xảy ra, ít nhất là trong hoàn cảnh chung của xã hội ở lúc này. Như nhà kinh tế Jonathan Pincus của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam đã nhận xét thì, “không thiếu gì người ở Việt Nam hiểu rõ nguyên nhân của sự bất ổn kinh tế hiện thời và các biện pháp cần thiết để ngăn chặn lạm phát giá cả, đồng thời tái lập lại sự ổn định thị trường” nhưng “những người này không ở một tư thế để làm được gì nhiều về việc đó”. Do đó, giới lãnh đạo đảng và nhà nước phải chịu trách nhiệm về tình trạng kinh tế hiện nay.

Trong quá khứ, các thủ tướng Việt Nam đã xử dụng một ban cố vấn gồm các nhà kinh tế độc lập, nhưng khi ông Dũng nhậm chức vào giữa năm 2006 thì ban cố vấn này bị giải tán. Tuy nhiên, ông ta đã đề nghị Chương trình Harvard Vietnam hướng dẫn thực hiện một phân tích nghiêm trọng về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho Viêt Nam. Bản phúc trình được công bố vào tháng 1/2008 và kết luận rằng “các cơ quan chính trị, hành chánh, và giáo dục của nhà nước Việt Nam, càng lúc càng bị các nhóm quyền lợi bám víu vào lợi dụng để làm giàu và nâng cao địa vị”, cho nên “mối đe dọa lớn nhất đối với nhà nước là những nhược điểm kém cỏi của chính họ”. Ðiều quan trọng là bản phúc trình cảnh báo rằng “nạn lạm phát ở Việt Nam là vấn đề do chính nhà nước tự gây ra, phần lớn là do kết quả của việc quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém và các quyết định đầu tư thiếu hiệu quả”. Việc này đòi hỏi phải hình thành ra “một sự nhất trí ủng hộ tăng trưởng và cải cách mới” mà nó “không dễ dàng gì”, vì sự thiếu vắng của một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, và sự nhất trí của năm 1986 không còn tồn tại nữa. .

Trong trường hợp nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không thể đứng ra giải quyết được tình trạng hiện nay, thì Tổng bí thư đảng Nông Ðức Mạnh có thể được phép ra tay đảm trách để bắt đầu một sự “khởi đầu mới” . Ông Mạnh và phe cánh của ông ta sẽ có thể quay trở lại một chính sách tiền tệ có cơ sở hơn, cho rằng nạn lạm phát không phải là một “hiện tượng tiền tệ” nhưng phần lớn là do hậu quả của sự tăng giảm cung cấp bất ngờ (supply shocks) từ nguồn FDI to lớn đổ vào và sự gia tăng đáng kể của tín dụng trong nước. Dĩ nhiên là trong khi một sự nhất trí như vậy có thể sẽ cho phép nhà nước độc đảng được “tiến lên”, nhưng nó sẽ không đạt được nhiều hiệu quả hoặc giữ vững được sự phát triển kinh tế.

Nguồn: Y-kien

CÓ BỆNH, KHÔNG NÊN LÀM QUẢN LÝ




Công luận vẫn chưa hết choáng váng vì những quy định của Bộ Y tế đưa ra về “Tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới”. Trong đó có những chi tiết khiến tất cả những người bình thường đều phải có phản ứng như: những người thấp bé, nhẹ cân (chưa cao đủ 1,45m, nặng chưa tới 40 kg) hoặc ngực lép (vòng ngực trung bình dưới 72cm) không đủ điều kiện lái xe gắn máy từ 50-175cm3; người có bệnh viêm loét thực quản, hẹp thực quản, loét dạ dày, sa trực tràng, trĩ, viêm gan mãn tính, to gan, teo gan, người bị vỡ xương hàm...không được phép lái xe…Nhìn vào những tiêu chí này, người ta nhận ra một vài triệu chứng của những căn bệnh hình như đã thành mãn tính đối với một số nhà quản lý công quyền.

Thứ nhất, đó là bệnh về não trạng duy ý chí, bề trên. Duy ý chí vì đáng lẽ ra pháp luật xuất phát từ thực tế, trên những đòi hỏi của thực tế, pháp luật ở nước ta nhiều khi do các cơ quan quản lý ban hành trước theo suy đoán, ý thích của mình, mà không hỏi người dân, sau đó người dân mới tham gia thụ động. Bề trên vì họ chỉ đứng trên kia nhìn xuống, mà không chịu xuống nhìn, cho rằng mình lúc nào cũng đúng, dân chỉ việc làm theo mà thôi.

Nói đến não trạng cũng vì nhà quản lý công quyền đã đưa ra những quy định “vô cùng… ngớ ngẩn”, “lạ lùng”, không giống ai như vậy. Nó khiến cho mỗi người bình thường đều phải tự hỏi, không hiểu “mấy ổng” có vấn đề hay không, nghi hoặc về não trạng của họ.

Thứ hai, đó là bệnh về mắt, cụ thể là thiển cận. Chẳng lẽ cơ quan quản lý không nhận ra những điều đơn giản như đâu phải cứ thấp bé nhẹ cân là nguyên nhân gây ra tai nạn và to béo nặng cân thì không gây tai nạn? Họ cũng không nhìn thấy được gì hơn ngoài 1,45m hay sao?

Thứ ba, đó là bệnh về tai. Họ đã không biết lắng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là một hoạt động bản năng nghe thông thường mà là một hoạt động có ý thức, là quá trình thu nhận thông tin; nó bao gồm cả quá trình tiếp nhận, phân loại, xử lý, lưu giữ và sử dụng thông tin. Về mặt tâm lí và tình cảm thì lắng nghe còn là sự chấp nhận và đồng cảm với những ai sẽ chịu ảnh hưởng của quy định quản lý. Cơ quan quản lý trong trường hợp này không hiểu đã nghe ai, nghe từ đâu, nhưng rõ ràng là họ không hề bỏ công ra lắng nghe từ chính những người có liên quan trực tiếp nhất.

Thứ tư, đó là bệnh về chân tay. Nhà quản lý trong trường hợp này lười đến nỗi chẳng buồn động chân động tay để làm những thao tác tối thiểu như thảo luận đến nơi đến chốn trước khi cho ra những quy định như vậy. Đấy là chưa nói đến những động tác nhọc nhằn, tốn công sức, thời gian như điều tra xã hội học, nghiên cứu đa ngành, đánh giá tác động…

Thứ năm, đó là bệnh về tim. Cơ quan quản lý đã không hề động lòng, tỏ ra vô cảm trước mưu sinh của hàng triệu con người. Họ coi con người như một vật thí nghiệm khi vụng chèo, vụng cả chống rằng, trong khi thực thi, Bộ Y tế sẽ sửa đổi, bổ sung sớm nếu thấy quy định không phù hợp thực tế. Và như một tác giả viết, họ đã làm trái với nguyên tắc y đức số một của ngành y là “không làm hại người”, khi làm tổn hại về vật chất và cả tinh thần của hàng triệu người.

Thực ra, đã có những cơ chế phòng bệnh. Trước hết, đó là tự phòng bệnh lấy với nhau. Trong mỗi bộ, Bộ Y tế cũng vậy, đều có Vụ Pháp chế có trách nhiệm thẩm định văn bản của Bộ mình, rồi lấy ý kiến trong Bộ trước khi đưa ra ngoài. Tiếp đó, văn bản được gửi đi lấy ý kiến các bộ ngành khác, gửi sang Bộ Tư pháp thẩm định. Thế nhưng, những cơ chế này hiện nay có vẻ như chưa đủ sức đề kháng trước những căn bệnh nói trên. Cơ chế khiếu kiện hành chính nước ta cũng hơi trái khoáy khi chỉ cho phép kiện văn bản ảnh hưởng đến cá thể, mà không được kiện những văn bản có phạm vi ảnh hưởng rộng như Quyết định của Bộ Y tế. Còn tòa án hiến pháp lại chưa có ở nước ta, trong khi Quyết định này rõ ràng tác động xấu đến quyền đi lại- một quyền cơ bản của hàng triệu công dân, và phân biệt đối xử, kỳ thị với những người bị thiệt thòi.

Trong Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm 2008 đã có quy định cơ quan ban hành văn bản phải tiến hành đánh giá tác động của văn bản, nếu không sẽ không được chấp nhận. Theo đó, cần đánh giá chi phí, hệ quả, những tác động có thể xảy ra đối với các nhóm trong xã hội, các khu vực, hoặc toàn bộ xã hội và nền kinh tế từ sự thay đổi chính sách hoặc pháp luật, được thực hiện trong qua trình làm luật, sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới. Điều quan trọng, cơ bản nhất là nó đưa ra nhiều phương án khác nhau, và nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh tác động của các giải pháp đó, lựa chọn chính sách, cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền, để họ có thể lựa chọn được giải pháp tốt nhất. Phương pháp này thiết lập các tiêu chí để đánh giá và so sánh các tác động đó. Đây là sự tiếp nhận một thông lệ tốt của nhiều nước. Tuy nhiên, theo Luật, Quyết định của Bộ lại không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, Luật này đến tháng 1/2009 mới có hiệu lực. Như vậy, hiện tại chỉ còn trông chờ vào Cục kiểm tra văn bản của Bộ Tư pháp có tiếng nói phản biện, và Bộ Y tế “bỗng dưng” khỏi bệnh chăng?

Còn đối với các dạng văn bản quy phạm pháp luật khác, trong quá trình lấy ý kiến góp ý Nghị định thực thi Luật này, nhiều chuyên gia đã khuyến nghị phải đánh giá tác động đối với tất cả những văn bản nào ảnh hưởng đến nhiều người, nhóm dân cư trong xã hội. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, nếu được chấp thuận, đây sẽ là một bộ lọc gạn lọc những văn bản không cần thiết, một cơ chế phát hiện, phòng ngừa việc ra đời những văn bản “lạ lùng” như vậy.

Cuối cùng, như một giáo sư có nói, “cần ban hành gấp quy định: người thiếu chất xám thì không được làm quản lý”. Người dân cũng tự hỏi: “mấy ổng” mắc nhiều bệnh vậy thì có đủ tiêu chuẩn để ngồi ở cái ghế quản lý công quyền, quyết những chuyện của hàng triệu con người như chúng ta?


Nguyên Lâm

25-10-08

Nguyên nhân nào khiến 2 lãnh đạo tờ Đại Đoàn Kết bị kỷ luật?




Hai lãnh đạo tờ báo Đại Đoàn Kết, thuộc Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, đã bị thuyên chuyển vì "vi phạm Luật Báo chí".

Nói với BBC, ông Đinh Đức Lập, Ủy viên Trung ương MTTQVN, xác nhận ông Lý Tiến Dũng, Tổng biên tập và Đăng Ngọc, Phó Tổng biên tập đã nhận quyết định kỷ luật chính thức.

"Hai anh sẽ chuyển sang làm nhiệm vụ khác. Trong quyết định nói rõ hai anh ấy vi phạm Luật Báo chí."

Ông Lập, Giám đốc Trung tâm đào tạo cán bộ của Mặt trận, nói thêm: "Thời gian vừa qua, nhà nước Việt Nam đã phải xử lý một số trường hợp như báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ và một số báo khác vì vi phạm Luật Báo chí của nước CHXHCN Việt Nam."


Dưới đây là bài viết của Thái Duy đã được đăng trên tờ Đại Đoàn Kết và một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kỹ luật 2 lãnh đạo của tờ báo. Bài viết nêu rõ việc áp dụng chủ nghĩa xã hội theo mô hình nước ngoài xa lạ với Việt Nam là một sai lầm nghiêm trọng, dẫn tới sự không còn gắn bó giữa lợi ích của nhân dân và chủ trương, chính sách của Đảng. Ngoài bài này, tháng 11 năm ngoái báo Đại Đoàn Kết còn đăng bài của đại lão công thần Võ Nguyên Giáp phản đối việc xây mới tòa nhà quốc hội trên khu đất Hòang thành Thăng Long dù vấn đề đã được quốc hội thông qua. Bài báo của Võ Nguyên Giáp đã bị các báo khác từ chối đăng

Đợt sinh hoạt chính trị lớn năm 2008

"Sau Đại thắng Mùa xuân 1975, đất nước độc lập và thống nhất, chủ nghĩa xã hội theo mô hình nước ngoài xa lạ với Việt Nam lại được Quốc hội nhất trí đồng tình ủng hộ và từ sai lầm nghiêm trọng này, các chủ trương, chính sách không còn xuất phát từ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, quan hệ giữa Đảng và dân không còn gắn bó như trước.

Đảng và Nhà nước vẫn thấy chỉ có cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mới đưa đất nước đến dân giầu nước mạnh, còn trong dân lại khác hẳn, mỗi tầng lớp, mỗi ngành nghề đều lặng lẽ, kín đáo tìm cách tự cứu, cởi trói khỏi cơ chế mất lòng dân này.

Cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái mới và cái cũ diễn ra giữa nhân dân và bộ máy Đảng và Nhà nước quan liêu, vẫn còn mê tín những kinh nghiệm nước ngoài thiếu chọn lọc.

Đông đảo nhân dân và các thành viên Mặt trận, các nhân sĩ, trí thức góp nhiều ý kiến, nêu nhiều kiến nghị nhằm cứu nền kinh tế đã lâm vào khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng, vựa lúa lớn nhất nước là Đồng bằng sông Cửu Long cũng thiếu gạo. Đại diện cho các tầng lớp nhân dân, chính là đại diện cho cái mới là Mặt trận, trong khi Đảng và Nhà nước vẫn còn lún sâu trong cái cũ. Còn gì không đẹp bằng chữ "CHUI" thế mà hàng chục năm cách làm ăn mang lại no ấm cho dân, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn cách làm ăn cũ do trên áp đặt lại bị gán cho tội làm "chui", dân vẫn phải "chui" kiên trì, gan góc chờ đợi những người lãnh đạo cuối cùng nhìn ra sự thật, công nhận làm "chui" mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam.

Mặt trận là nơi tổng hợp ý kiến của toàn dân, chỉ có Mặt trận mới có thể tổ chức phản biện để Đảng và Nhà nước thường xuyên nhận được phản ứng của các tầng lớp nhân dân đối với mọi chủ trương, chính sách, khen hoặc chê, đồng ý hoặc cần sửa chữa như thế nào mới hợp lòng dân ý Đảng.

Trước thử thách chưa từng thấy, lực cản cái mới lại là bộ máy Đảng và Nhà nước, đáng lẽ Mặt trận càng phải là đại diện của dân, đứng về phía quyền lợi chính đáng của dân vì quyền lợi chính đáng của dân bao giờ cũng là quyền lợi của Đảng, phản ánh trung thực mọi tâm tư nguyện vọng của dân, mọi kiến nghị, mọi hiến kế nhằm tháo gỡ khó khăn chồng chất do chính chủ quan gây ra. Rất tiếc, đấu tranh giai cấp lại là động lực chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội phục hồi nền kinh tế vì vậy chủ nghĩa xã hội có những khuyết tật, nền kinh tế lụn bại là tất nhiên, đồng thời Mặt trận bị thu hẹp, không thể thực hiện chức năng đích thực là giám sát và phản biện xã hội. Mỗi lần đấu tranh giai cấp là động lực của cách mạng, tổn thất không sao lường hết, từ cải cách ruộng đất kết hợp với đấu tố, cải tạo công thương nghiệp đến những năm bao cấp, chúng ta thấy mỗi lần coi nhẹ khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân phải trả giá quá đắt.

Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đối lập với dân chủ và đoàn kết, Mặt trận cũng bị hành chính hóa, trong thực chất Mặt trận là một cơ quan Đảng và Nhà nước hơn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất, đại diện cho toàn dân. Mặt trận cũng nhất trí cao với mọi chủ trương chính sách, nghị quyết xa rời cuộc sống của Đảng và Nhà nước mặc dù các tầng lớp nhân dân không thể chấp nhận một nền kinh tế chỉ còn hai thành phần còn nhân dân bị trói buộc không được tự do làm ăn, thậm chí nhà doanh nghiệp còn phải về lao động cải tạo ở nông thôn để đảm bảo không còn mầm mống bóc lột. Nếu Mặt trận thực sự là cầu nối giữa dân với Đảng như từng gắn bó máu thịt giữa dân với Đảng suốt 30 năm kháng chiến và là nguồn gốc của mọi sức mạnh thì cơ chế bao cấp không thể tồn tại lâu như thế, phải đến khi nền kinh tế đã kiệt quệ, nạn đói đã lan rộng, vận nước đã ngàn cân treo sợi tóc thì đổi mới mới trở thành hiện thực.

Đây là bài học dân vận rất đáng ghi nhớ và nhân năm 2008 tiến hành đợt sinh hoạt chính trị lớn trong các cấp Mặt trận và toàn dân chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc Mặt trận lần thứ VII, bài học này vẫn còn tính thời sự, rất cần được suy ngẫm, nhìn lại để thấy khi Mặt trận chưa thực sự coi giám sát và phản biện xã hội là chức năng hàng đầu thì Mặt trận chưa thể đại diện cho toàn dân, vì vậy Mặt trận chưa là chỗ dựa vững chắc của Đảng. Hơn 20 năm đổi mới, Mặt trận đã có nhiều thay đổi, những ngăn cách do chiến tranh để lại đã được dần dần khắc phục, các tầng lớp trong xã hội xích lại gần nhau hơn, nhất là đối với đa số những người trước đây đã sống và làm việc trong chế độ Sài Gòn trước 1975. Quan điểm về đoàn kết dân tộc, đã không ngừng được bổ sung và phát triển ngày càng tiến bộ và thiết thực hơn. Quan điểm đấu tranh giai cấp đã bị đẩy lùi một phần nhưng còn gây khó khăn, ví dụ còn kỳ thi đối với kinh tế tư nhân trong việc vay vốn, trong hủ tục hành chính, trong thuê mướn mặt bằng sản xuất ... vẫn chưa có sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế. Giám sát đã có một số tiến bộ nhưng phản biện xã hội còn rất xa mới đạt yêu cầu Đảng đề ra.

Sau WTO, đi lên chủ nghĩa xã hội không phải lúc nào cũng suôn sẻ, đề phòng lại có thời gian chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không theo kịp cuộc sống và trong trường hợp ấy, Mặt trận phải thực sự là nơi quy tụ mọi nhân tài, tập trung trí tuệ của toàn dân để giúp Đảng và Nhà nước theo kịp cái mới luôn luôn thay đổi, không thể tái diễn như thời bao cấp, việc đáng giải quyết một năm là cùng kéo dài hàng chục năm, riêng khoán hộ trong nông nghiệp kéo dài hơn 20 năm, làm cho dân chịu đói khổ quá lâu. Chưa ý thức được đầy đủ, sâu sắc, giám sát và phản biện xã hội là lý do tồn tại của Mặt trận, chỉ có Mặt trận mới thực hiện được trọng trách này thì Mặt trận còn tiếp tục làm những việc nơi khác cũng làm được.

Đại hội lần thứ X (2006) rất quan tâm đến đổi mới và nâng cao chất lượng mọi hoạt động của Mặt trận, Đại hội đề ra chủ trương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với việc hoạch định và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng, kể cả với công tác tổ chức và cán bộ. Xây dựng một cơ chế giám sát và phản biện xã hội phù hợp với đặc điểm tình hình nước ta là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Một đảng duy nhất lãnh đạo rất cần một Mặt trận có đủ khả năng giám sát chặt chẽ kết hợp với phản biện xã hội dù có tai mắt của nhân dân mới giúp Đảng phát hiện nỗi bất cập lệch lạc mới không còn lún sâu trong cái cũ quá lâu, không phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng.

Đại hội lần thứ X khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát: Đại đoàn kết dân tộc làđường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đợt sinh hoạt chính trị lớn năm nay là dịp để chúng ta nắm vững quan điểm rất quan trọng của Đảng: Động lực để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc để trở thành động lực thúc đẩy đổi mới.

Thái Duy

Việt Nam: Đằng sau những vụ tống giam nhà báo






Những người kiên định lập trường của Đảng Cộng sản có tham vọng giết những người đưa tin và làm sứt mẻ hình ảnh của thủ tướng

Bài của Roger Mitton

Thứ Sáu, ngày 24-10-2008


Việc kết tội hai nhà báo có tên tuổi tại Hà Nội vào tuần trước đã có liên qua tới các cuộc đấu đá quyết liệt trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam. Phiên tòa lộ vẻ đầy nhạo báng xử án các nhà báo và hai điều tra viên chống tham nhũng đã biểu thị cường độ xung đột giữa phái bảo thủ và phái cải cách trong đảng. Kẻ thua cuộc dường như là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Tập hợp xung quanh ông Dũng là một nhóm người mới gồm các nhà kỹ trị có tư tưởng cải cách và một số khác bênh vực cho một xã hội cởi mở hơn và minh bạch hơn. Hầu hết họ xuất thuân từ miền Nam và đã học hành tại các trường đại học của phương tây. Dưới quyền ông Dũng, nhóm này đã tập trung vào giải pháp hướng tới một nền kinh tế hướng tới thị trường hơn với một ý thức nhấn mạnh tới mục tiêu tăng trưởng cao, đầu tư nhiều hơn và mức tiêu dùng cao hơn.

Đang phản đối họ là một nhóm lớn hơn gồm những nhà lãnh đạo già nua và có thâm niên hơn, hầu hết từ miền Bắc và miền Trung Việt Nam, và chủ yếu thuộc cánh quân đội và an ninh trong đảng, họ đặt sự ổn định đất nước lên trên tất cả những ưu tiên khác. Những người trong giới bảo thủ này lưu tâm tới bất cứ vấn đề cải cách nào, kinh tế hay chính trị, với thái độ cẩn trọng đáng kể, vì theo quan điểm của họ, những cải cách đang mang theo một thái độ đe doạ không thể nào nhầm lẫn được đối với địa vị đứng đầu của đảng.

Căn cứ theo hiến pháp, Việt Nam là một quốc gia độc đảng. Không một tổ chức chính trị nào khác được phép tồn tại ngoại trừ Đảng Cộng sản. Và đương nhiên, bất cứ biến cố nào đưa đảng vào tình trạng bị tai tiếng đều mang theo tiềm năng làm yếu đi sự chấp nhận của quần chúng đối với quyền hành tuyệt đối này. Và không một sự kiện nào trong những năm gần đây lại có thể bôi bẩn hình ảnh của đảng quá mức như là vụ bê bối PMU-18 từ hai năm trước.

Trở lại thời điểm đó, vào thời gian trước khi diễn ra Đại hội lần thứ 10 của đảng (4/2006), các điều tra viên cảnh sát đã tiết lộ các chi tiết cho giới truyền thông về việc làm thế nào mà các quan chức trong Ban Quản lý Dự án số 18 (PMU-18) của Bộ Giao thông đã chiếm dụng một cách bất hợp pháp những khoản tiền rất lớn để cá độ bóng đá trong giải Premier League của Anh. Người đứng đầu PMU-18 là Bùi Tiến Dũng công khai thú tội đã sử dụng 2,6 triệu đô la từ các quỹ của bộ do Ngân hàng Thế giới và Nhật bản cung cấp để chơi trò cờ bạc và có những hoạt động phi pháp khác.

Vào lúc đó, không một ai trong những người lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam nói ra khả năng có thể có bất cứ mối nghi ngờ nào về hành động đồng lõa của các quan chức bộ giao thông trong những mưu đồ tham nhũng. Điều đó lập tức được xem là tất yếu, không chỉ về phía người dân bình thường - là những người, trong bất cứ tình huống nào, đều tin rằng toàn bộ các quan chức của đảng từ các vị đứng đầu cho tới cấp thấp nhất đều tham nhũng - mà còn cả giới lãnh đạo đất nước rằng các quan chức này phạm tội và phải bị trừng trị. Đến mức nhóm PMU-18 vì vậy liền bị phạt tù lên tới 13 năm, trong khi bộ trưởng giao thông đã bị ép từ chức và thứ trưởng của ông ta đã bị bắt để tiến hành điều tra sâu hơn.

Hai sĩ quan cảnh sát chủ chốt là những người đã tiết lộ thông tin với giới truyền thông cho biết họ làm vậy vì biết rằng đó là con đường nhanh chóng nhất để khích động các thượng cấp của mình đưa ra hành động chống lại những kẻ bất lương.

Tất nhiên, thái độ vị tha thị dân không chỉ có trên phim ảnh. Họ và các nhà báo cũng đã biết, dựa vào sự tính toán thời gian cho các đợt tiết lộ thông tin, là họ đã bị lợi dụng để làm mất tín nhiệm những nhân vật nào đó đang trong giai đoạn thăng quan tiến chức ở Đại hội 10 của Đảng vào tháng Tư [năm 2006].

Rốt cuộc, tình trạng tham nhũng đã tràn lan khắp tất cả các cấp bậc của đảng, và miễn là nó được thực hiện một cách tương đối thận trọng và không quá đáng, nó được tha thứ với mục đích để cho các quan chức trong quân đội, công an và ngành dịch vụ dân sự có thể sống sung túc, mà không phải kể tới những khoản tiền lương chính thức nhỏ mọn của mình.

Bộ trưởng giao thông lúc đó, ông Đào Đình Bình, đã là uỷ viên chủ chốt trong ban chấp hành trung ương Đảng và được xem như sẽ là một thành viên tiềm năng trong Bộ Chính trị. Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến của ông, và thiếu tướng Cao Ngọc Oánh, một bạn đồng liêu với người đứng đầu PMU-18 Bùi Tiến Dũng, đã được xem như là những người được ưa chuộng để bầu vào ban chấp hành trung ương và có vẻ phù hợp để thăng cấp lần lượt lên bộ trưởng và thứ trưởng bộ giao thông. Thế nhưng sau khi bị phát hiện ăn hối lộ trong vụ bê bối tham nhũng đó, những cơ hội thăng tiến của họ đã tắt ngấm.

Như nhà phân tích chính trị Huy Đức đã lưu ý trên blog của ông, là trong nền chính trị phe cánh ở Việt Nam, nhiều quan chức "sử dụng các tờ báo như là một thứ phương tiện để thúc đẩy mục đích riêng của họ." Và họ thường làm như thế để đẩy nhanh hơn việc loại bỏ các đối thủ của mình.

Đối với phạm vi mà sự suy sụp trong băng nhóm PMU-18 đã thể hiện mối liên quan trực tiếp của mình đối với tham nhũng, hay đối với cách mà các địch thủ của họ đã phơi bày họ ra công khai, thì đó là một điểm nghi vấn. Thế nhưng rõ ràng việc quyết định vạch trần và trừng phạt họ là một động thái chính trị được ủng hộ bởi những nhà cải cách, bao gồm Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi đó và phe nhóm của ông, những người mưu toan tạo lập những phẩm chất như là người chiến sĩ trên mặt trận chống tham nhũng.

Thực vậy, ngay sau khi Đại hội kết thúc và ông Dũng trở thành Thủ tướng, ông đã lệnh cho bộ công an hãy đẩy nhanh các cuộc điều tra của mình trong số các vụ án tham nhũng ở cấp cao trong đảng và các giới chức nhà nước. Ông cũng yêu cầu giới truyền thông hãy giúp chính phủ trừ tận gốc nạn tham nhũng.

Điều đó hoàn toàn là chính đáng và tốt đẹp và nó đã được khen ngợi rộng rãi bởi cộng đồng quốc tế. Và nó cũng được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng, những người đã bị thu hút mối quan tâm vào vụ PMU-18 và cái cách mà cơ quan này bị phát hiện về tình trạng gia đình trị tràn lan trong việc bổ nhiệm bộ máy nhân viên trong đơn vị - trong đó chỉ lần lượt xác nhận những mối hoài nghi tệ hại nhất trước công chúng về tầm quan trọng của những mối quan hệ gia đình, chứ không phải là năng lực, trong việc kiếm được sự thăng tiến trong đảng. Và nó làm người ta ngạc nhiên khi có việc báo chí quốc gia phát hiện và tiết lộ ra những vụ việc đó như là hiện tượng giàu có không thể giải thích được của các quan chức PMU-18 và cách mà hệ thống nhân sự của đảng đã không chặn đứng - và trong một số trường hợp còn khuyến khích - con đường đi tới của các quan chức giàu có và bất lương này.

Những tiết lộ gây sửng sốt này là một mối đe doạ rõ ràng và hiện hữu đối với khối bảo thủ đang vượt trội trong đảng và đối với toàn bộ các quan chức chính phủ nào nhờ cậy vào những mối liên hệ, các của đút lót, những thỏa thuận thân tình, những thăng tiến dựa vào người thân quen và những sở thích khác.

Nếu như các điều tra viên cảnh sát dù muốn hay không cũng được phép bắt đầu tiết lộ thông tin cho giới báo chí về các hành động tham nhũng, thì hầu hết các đảng viên sẽ gặp nguy hiểm. Đã có biểu hiện lo lắng. Đã có sự tức giận.

Theo truyền thống, sẽ hoàn toàn thuận lợi khi vạch mặt các đảng viên có chức vụ bậc trung nào đó nếu như họ phạm tội theo một cách không thích đáng và nếu như đảng quyết định là họ có thể phải bị loại trừ; nhưng quyết định thường được thực hiện trong nội bộ đảng trước khi các quan chức này bị lộ diện.

Và chưa bao giờ, dưới bất cứ tình huống nào, có các uỷ viên trung ương đảng hay các bộ trưởng bị vạch trần hành động tội phạm mà không có sự phê chuẩn của Bộ Chính trị. Vụ PMU-18 đã phá vỡ hệ thống chuẩn mực đó.

Khi không có việc tiếp nhận phê chuẩn ban đầu từ ban lãnh đạo đảng, hai điều tra viên chủ chốt, tướng Phạm Xuân Quắc, người lãnh đạo một trong những cơ quan điều tra của bộ nội vụ, và một trong các thuộc cấp của ông, thượng tá Đinh Văn Huynh, đã cung cấp thông tin cho báo chí.

Các nhà báo có vị trí quan trọng nhận được tin mật về mưu đồ trong PMU-18 là Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải, là các phó biên tập (?) của hai tờ báo có số ấn bản lớn nhất và được đánh giá cao nhất, là tờ Thanh Niên và Tuổi trẻ.

Nhóm bốn người này - hai nhà báo và hai điều tra viên - là những người đã phải nhận sự trừng phạt vào tuần trước khi Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội tuyên án họ tội "lạm dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích quốc gia" theo Điều 258 của Bộ luật Hình sự Việt Nam.

Tội thực sự của họ, tất nhiên, là đã đi theo cái chuẩn mực khác với nguyên tắc không được vạch mặt các thành viên cao cấp của đảng một khi không nhận được sự phê chuẩn trước tiên từ giới lãnh đạo hàng đầu, và hơn nữa, là về việc họ đã để mình bị cuốn vào trong cuộc đấu đá nội bộ của đảng, vì vậy mà họ đã trở thành những thứ công cụ để hạ bệ những nhà lãnh đạo nào đó và theo cách đó cho phép những nhân vật khác tiến tới.

Dĩ nhiên, điều đáng khiển trách thuộc về cả hai phe phái. Tướng Quắc, người tiết lộ thông tin hàng đầu, trước đó đã từng hy vọng sẽ được tiến cử vào một vị trí trong ban chấp hành trung ương năm 2006, thế nhưng sau đó ông đã bị người ta qua mặt để hỗ trợ những người khác trong bộ công an và vì thế ông đã tiết lộ những thông tin mà những tin ấy đã không có lợi cho các đối thủ của ông.

Theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, giám đốc Chương trình Đông Dương của trường Đại học George Mason, Hòa Kỳ, thì: "Toàn bộ mối quan hệ này phản ánh một cuộc đấu đá nội bộ bên trong bộ an ninh [Bộ Nội vụ]."

Tuy nhiên, không một ai, thậm chí cả TT Dũng, nghi ngờ rằng thực sự có tình trạng tham nhũng tràn lan bên trong cơ quan PMU-18 và rằng việc để lộ ra vục này đã giúp diệt trừ nạn tham nhũng. Và bởi có điều đó, nên ban lãnh đạo đã phải để cho thời gian trôi đi trước khi họ có thể phát động chiến dịch "trả nợ" chống lại những người làm rò rỉ thông tin và các nhà báo hàng đầu là những người đã phá vỡ hệ thống chuẩn mực ấy.

Trong khoảng thời gian đó, rất nhiều nhà báo đã bị triệu tập để chất vấn về các nguồn tin của họ liên quan tới chuyện PMU-18, những người bên trong đảng đã nói rằng những cuộc đấu đá dữ dội đã tiếp liền sau về việc những ai dính líu trong chuyện tiết lộ nên được trừng phạt ra sao.

Sự việc đã diễn ra mà không cần phải giải thích rằng giới bảo thủ, những người vẫn đang còn nắm giữ vai trò chính yếu bên trong đảng, đã chiến thắng và rằng bất chấp sự phản đối mang tính cá nhân của TT Dũng trước động thái đó, một quyết định đã đươc thông qua để khởi tố những người đã tiết lộ vụ bê bối.

Đương nhiên, thực tế là ông trùm của đảng, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, trong tư cách cá nhân đã bị lúng túng ngượng nghịu bởi việc này, vì con rể của ông là Đặng Hoàng Hải đã làm việc cho cơ quan PMU-18, nghĩa là một số hành động chống lại những người để rò rỉ thông tin là không thể tránh được.

Điều đó nói lên rằng, quy mô của hành động đó đã làm kinh ngạc nhiều người, đặc biệt là thời hạn phạt tù hai năm được đưa ra cho ông Nguyễn Việt Chiến, nhà báo kỳ cựu rất được ưa thích. Khi ông Chiến nói lời cuối tại phiên xử tuần trước, phát biểu của ông đã được thúc đẩy không phải bởi làm lợi cho cá nhân, mà bởi ước muốn "để chiến đấu với tham nhũng." Tự biện hộ rằng mình vô tội, ông nói với quan tòa: "Thông tin được sử dụng trong các bài báo của tôi là được cung cấp bởi các sĩ quan công an."

Theo Giáo sư Hùng: "Hai nhà báo đã có được những tin tức từ các nguồn của chính phủ. Và khi các quan chức liên lạc với các nhà báo để công bố những thông tin nào đó, thì hầu như không thể có chuyện các nhà báo sẽ từ chối."

Những lý lẽ ấy từ chính quyền đã làm cho các bị cáo trở thành những người không tốt. Điều đó cũng đã không đem tới bất cứ sự tốt lành nào đối với những nhà báo khác, những người đã phản đối những vụ bắt giữ các đồng nghiệp của mình; hành động đó đơn thuần làm mất chiếc thẻ nhà báo của họ. Và điều này đã đi xa hơn bằng việc làm khích động mạnh lòng phẩn nộ cực độ trong công chúng.

Tờ Tuổi Trẻ, với việc gọi các vụ bắt giữ là "một hành động nhạo báng công lý," đã cho biết rằng họ bị ngập tràn các cuộc điện thoại, thư điện tử và thư tín từ những công dân phản đối hành động của chính quyền - số lượng nhiều nhất mà họ nhận được trong suốt 33 năm làm báo.

Thế nhưng trước khi tuyên bố bản án vào tuần trước, Chánh án Trần Văn Vỹ đã quả quyết rằng ông Chiến đã cho công bố những thông tin bịa đặt "làm tổn hại uy tín của các cán bộ cao cấp, kích động người dân có một sự đánh giá tiêu cực đối với các vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước."

Tìm cách để chặn đứng những sự đánh giá tiêu cực nổi lên,] Ban Tư tưởng và Văn hóa của đảng [Ban Tuyên giáo] đã ra lệnh cho tất cả các cơ quan truyền thông phải hạn chế các bài tường thuật của họ về các vụ bắt giữ và sẽ trừng phạt bất cứ nhân viên nào không tuân theo chỉ thị (điều này đã dẫn đến kết quả là ông Huỳnh Kim Sánh đã bị buộc phải rời khỏi vị trí của mình trong vai trò Tổng thư ký báo Thanh Niên và ông Bùi Thanh, phó tổng biên tập tờ Tuổi Trẻ, đã bị cách chức, cùng với Tổng thư ký Hoàng Hải Vân(?).

Theo ông Nguyễn Trần Bạt, chủ tịch Tập đoàn Tư vấn Investconsult Group, một trong những công ty tư vấn thương mại lớn nhất nước này: "Rất khó hiểu khi chính quyền cho bắt và bỏ tù những người từng được ca ngợi về hành động vạch mặt tham nhũng."

Người ta được biết rằng TT Dũng đã liên lạc và trong chốn riêng tư đã diễn tả hành động cảm thông với các chủ bút đang có hành động phản kháng; thế nhưng rõ ràng ít có khả năng ông ta có thể làm được điều gì. Các nhà báo Việt Nam giờ đây trên thực tế đã bị ngăn cấm tiếp nhận thông tin về những trường hợp tham nhũng trong số các đảng viên.

Một uỷ viên công tố, khi thẩm vấn ông Chiến, đã nói rằng tất cả các cuộc phỏng vấn với các nguồn tin của cảnh sát là bất hợp pháp theo luật báo chí Việt Nam bởi vì "các nhà báo không được phép tiếp nhận thông tin từ các nguồn tin không có thẩm quyền."

Theo Tổ chức Nhà báo Không Biên giới: "Hậu quả của phiên tòa này là một bước lùi khủng khiếp đối với nghề phóng viên điều tra tại Việt Nam. Cơ sở còn yếu ớt cho một nền báo chí có khả năng đóng vai trò thử thách chính quyền được thiết lập đã bị lung lay một cách trầm trọng."

Ngày nay, thậm chí các nhà nghiên cứu ngoại quốc ở Việt Nam đã tỏ ra thận trọng trước việc bày tỏ công khai các quan điểm của mình do lo sợ bị trả thù, thường là dưới dạng từ chối cấp thị thực nhập cảnh. Với thái độ trơ tráo, các quan chức của đảng đã siết chặt hàng ngũ và lặp lại rằng tại Việt Nam, vai trò của truyền thông do nhà nước nắm giữ là bảo vệ đảng và truyền đạt những ý muốn của nó tới dân chúng.

Ghi nhớ rằng vào ngày 20 tháng Sáu năm nay, thứ trưởng bộ văn hóa [Thông tin Truyền Thông] Đỗ Quý Doãn đã nói rằng báo chí trong nước là một lực lượng đấu tranh với "những tư tưởng sai trái và các kế hoạch của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị, và để bảo về những tư tưởng, đường lối và sự lãnh đạo trên nguyên tắc cơ bản của đảng." Không thể vạch trần những hành động bất lương bên trong ban lãnh đạo và làm mất mặt đảng.

Hành động đàn áp thẳng tay, xảy ra cùng lúc với một biện pháp thô bạo chống lại cộng đồng Thiên chúa giáo và các nhà hoạt động tranh đấu cho người lao động và và thực tế với bất cứ những tiếng nói nào mới xuất hiện chống lại đường lối của đảng, đã phản ánh một niềm hân hoan đối với những nhân vật bảo thủ và một bước thụt lùi ghê gớm cho cuộc vận động của những nhà cải cách.

TT Dũng đã phải gia nhập vào cuộc đàn áp khốc liệt sau những phê phán dai dẳng của giới bảo thủ đối với thái độ khoan nhượng của chính phủ trước một bộ máy truyền thông cởi mở hơn, cũng như sự nhấn mạnh của ông Dũng vào tăng trưởng kinh tế nhanh chóng bất chấp tình trạng lạm phát cao đã làm xa cách rất nhiều cơ sở ở nông thôn của đảng.

Được nhìn nhận ngày càng rõ như là nhân vật vừa mềm dẻo về vấn đề an ninh vừa rất hăm hở nhượng bộ trước những đòi hỏi của nước ngoài, ông Dũng đang gặp nguy hiểm trước tình trạng bị lu mờ dần trong đảng bên cạnh nhân vật quyền lực đang lên cao Trương Tấn Sang, một ủy viên Bộ chính trị người miền Nam đứng đầu Ban bí thư, bộ máy điều hành hoạt động hàng ngày của đảng. Ông Sang đang lãnh đạo cuộc đàn áp thẳng tay đối với giới báo chí và đã thành công trong việc lôi các nhà báo và những nhà bất đồng chính kiến khác ra tòa, viện dẫn sự cần thiết giữ ổn định trong giai đoạn nền kinh tế đang gặp khó khăn.

Mới đây ông lưu ý: "Việc bố trí những phiên xử án chính trị này đã hoàn tất mức độ nào đó thể hiện sự thành công trong việc dạy cho những người này một bài học và như vậy trên thực tế làm tiêu tan các hoạt động chính trị đối lập trong lúc chúng vẫn còn trong thời kỳ phôi thai."

Trong lúc ngôi sao của ông Sang đang lên, cùng với những nhân vật kiên định lập trường như ông Lê Hồng Anh và ông Hồ Đức Việt, thì ngôi sao chiếu mệnh của TT Dũng đã bắt đầu bị lu mờ. Những anh chàng hung tợn này không phải lãnh trách nhiệm trước những người bị xử tù giờ đây đang tỏ ra có uy thế. Sự nổi lên của họ và bước thụt lùi đối với những nhà cải cách đã là bằng chứng trong cuộc đụng độ bên trong để tiếp tục tìm cách giải quyết tình trạng suy sụp kinh tế nặng nề của đất nước và giờ đây nó có thể dẫn đến những cuộc ẩu đả lớn hơn ở cấp cao nhất nếu như cơn suy thoái còn tiếp diễn.

Như một chuyên gia Việt Nam đã nói: "Phiên tòa tuần trước không phải về hai nhà báo mà là về cái cách họ, nằm trong số nhiều nhà báo khác, rốt cục đã bị lợi dụng trong những cuộc đấu đá phe phái."

Ông nhận xét tiếp: "Khó mà nói được người nào đứng về phe người nào, và liệu chúng ta có thể dễ dàng gắn nhãn cho nhóm này là "bảo thủ" hay nhóm kia là "có chừng mực" hay không khi những cuộc đấu đá phe phái này tỏ ra ít được điều khiển bởi hệ tư tưởng và có vẻ nhiều hơn là một sự pha trộn của trò tranh giành quyền lực và lợi ích riêng về kinh tế."

Thêm vào đó, Giáo sư Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam có danh tiếng thuộc Viện Quốc phòng Úc nhận xét: "Tính hợp pháp của nhà nước độc đảng ở Việt Nam phần nhiều là dựa vào 'tính hợp pháp theo lối trình diễn,' đó là, sự thành công trong việc thực hiện tăng trưởng kinh tế cho xã hội nói chung."

Thiếu vắng thứ tăng trưởng đó, nỗi oán hận của công chúng trước những biện pháp xử trí tàn bạo tựa như những bản án vào tuần trước không nghi ngờ gì nữa sẽ gia tăng và sẽ ngày càng đe doạ tới tính hợp pháp của đảng.

Hiệu đính: Blogger Trần Hoàng

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008

Nội dung Quyết Nghị Quốc hội Châu Âu về vấn đề Nhân quyền




Quyết Nghị của Quốc hội Châu Âu về Hiệp ước đối tác và hợp tác mới giữa Liên Âu - Việt Nam và vấn đề Nhân quyền

QUỐC HỘI CHÂU ÂU,

- chiếu theo các Nghị Quyết trước đây về vấn đề Việt Nam,

- chiếu theo Hiệp ước Hợp tác năm 1995 giữa Liên hiệp Châu Âu và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,

- chiếu theo Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết năm 1982,

- chiếu theo điều 108, chương 5, Quy chế Liên hiệp Châu Âu,

A. Vì rằng, cuộc thảo luận lần thứ hai giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 20 và 21.10.2008,

B. Vì rằng, cuộc điều trần về Việt Nam , Lào và Cam Bốt do Phân ban Nhân quyền tổ chức hôm 25.8.2008,

C. Vì rằng, cuộc họp Đối thoại nhân quyền giữa Ba vị chủ tịch Liên hiệp Châu Âu [tiền nhiệm, đương nhiệm và sắp tới] với Việt Nam ấn định vào tháng 12.2008,

D. Vì rằng, Điều 1 trong Hiệp ước Hợp tác giữa Liên hiệp Châu Âu và CHXHCNVN ấn định rằng "tôn trọng nhân quyền và những nguyên tắc dân chủ là nền tẳng cho việc hợp tác giữa hai bên là điều kiện của hiệp ước và cũng là yếu tố chủ yếu của Hiệp ước",

E. Vì rằng, tự do hội họp bị hạn chế nghiêm trọng : tháng 9.2008 chính quyền Việt Nam phát động cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất trong nhiều thập niên qua đối với người Công giáo biểu tình ôn hòa tham gia cầu nguyện tại Hà Nội để đòi đất đai giáo sản bị chính quyền tịch thu,

F. Vì rằng, tự do báo chí bị hạn chế nghiêm trọng : trong năm 2008 nhiều ký giả Việt Nam bị bắt hay bị trừng phạt vì tường thuật nạn tham nhũng của giới quan chức, và, ngày 19.9.2008, Trưởng phòng Mỹ liên xã (AP), ông Ben Stocking bị bắt, bị công an đánh đập khi ông theo dõi cuộc biểu tình ôn hòa của người Công giáo Việt Nam tại Hà Nội,

G. Vì rằng, các dân tộc ít người miền thượng du Bắc Việt và Cao nguyên Trung phần luôn luôn là nạn nhân bị phân biệt đối xử, bị tịch thu đất đai, và bị vi phạm quyền tự do tôn giáo và văn hóa; vì rằng các tổ chức phi chính phủ độc lập cũng như các nhà báo không được tự do đến các vùng cao nguyên để chứng kiến thực trạng của những người Thượng, và đặc biệt thực trạng của những người Thượng hồi hương từ Cam Bốt; vì rằng hơn 300 người Thượng đã bị kết án tù từ năm 2001 do tham gia những hoạt động chính trị và tôn giáo ôn hòa,

H. Vì rằng, mặc Cộng đồng thế giới không ngớt kêu gọi liên tục, nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ (79 tuổi), đoạt Giải Nhân quyền Rafto năm 2006, từng nhiều lần bị bắt bỏ tù từ năm 1982 và hiện nay vẫn còn tiếp tục bị quản chế,

I. Vì rằng, chính quyền Việt Nam vẫn chưa chịu công nhận quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Việt Nam.

J. Vì rằng, Việt Nam thiết lập những điều luật hạn chế quyền tự do vào mạng internet, thông qua việc kiểm tra và kiểm soát nội dung văn bản, và đã bắt giam những "nhà ly khai sử dụng Internet" với lý do dùng internet để phổ biến các quan điểm nhân quyền và dân chủ hay thảo luận dân chủ; vì rằng, ngày 10.9.2008, ông Nguyễn Hoàng Hải, nhà báo sử dụng mạng Blog cũng là người bảo vệ nhân quyền, được biết qua bút hiệu Điếu Cày, đã bị kết án tù,

K. Vì rằng, những thành viên thuộc dân tộc ít người Khmer (Khmer Krom) ở miền Nam Việt Nam, bị đàn áp tôn giáo, bị tịch thu đất đai, chính quyền còn bắt hoàn tục khoảng 20 Tăng sĩ Phật giáo Khmer krom vì họ tham gia cuộc biểu tình ôn hòa tháng 2.2007 kêu gọi cho tự do tôn giáo, trong số này năm người bị kết án tù, chính quyền Việt Nam quản chế Tăng sĩ Tim Sakhorn sau khi mãn hạn tù tháng 5.2008, và chính quyền còn bạo hành đối với nông dân khmers kroms khiếu kiện việc tranh cãi đất đai,

QUỐC HỘI CHÂU ÂU

1. Nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại nhân quyền giữa Liên hiệp Châu Âu với Việt Nam phải đưa tới những cải thiện xác thực tại Việt Nam; yêu cầu Hội đồng Châu Âu và Ủy hội Châu Âu phải định giá lại chính sách hợp tác với Việt Nam, cần xét đến Điều 1 trong Hiệp ước Hợp tác ký kết năm 1995, qua đó công cuộc hợp tác đặt nền tảng trên sự tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền cơ bản;

2. Kêu gọi Ủy hội Châu Âu thiết lập các tiêu chuẩn minh bạch nhằm lượng định các dự án phát triển hiện hành tại Việt Nam để bảo đảm sự tương hợp với điều khoản liên quan đến nhân quyền và dân chủ;

3. Kêu gọi Ủy hội Châu Âu và Hội đồng Châu Âu, trong khuôn khổ thương thuyết đang diễn ra cho Hiệp ước đối tác và hợp tác mới, sẽ phải có một điều khoản rõ ràng, không nhập nhằng về nhân quyền và dân chủ phối hợp với một công cụ nhằm bảo đảm sự thực hiện điều khoản này, cũng như đề xuất với nhà cầm quyền Việt Nam nhu cầu chấm dứt hiện trạng vi phạm quy mô dân chủ và nhân quyền trước khi hoàn thành dạng bản Hiệp ước, và

ĐẶC BIỆT YÊU SÁCH CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM :

- là thành viên Hội đồng Bảo an LHQ, hợp tác tích cực với cơ cấu Nhân quyền LHQ, bằng cách thỉnh mời đến Việt Nam Báo cáo viên Đặc nhiệm Bất bao dung Tôn giáo, mà chuyến điều tra cuối cùng tại Việt Nam thực hiện năm 1998, và Tổ Hành động Chống bắt bớ trái phép, mà chuyến điều tra cuối cùng tại Việt Nam thực hiện năm 1994; cũng như cho phép các viên chức LHQ, các Báo cáo viên đặc biệt được tự do thăm viếng mọi miền, kể cả miền Thượng du phía Bắc và Cao nguyên Trung phần, để gặp gỡ trao đổi riêng tư với những tù nhân chính trị và tôn giáo, cũng như với những người sắc tộc xin tị nạn từ Cam Bốt trở về Việt Nam;

- trả tự do tức khắc cho mọi cá nhân bị tù đày hay giam giữ vì lý do biểu tỏ ôn hòa chính kiến hay tôn giáo, đặc biệt là nhóm 300 người thượng Thiên chúa giáo, cũng như các Tăng sĩ Phật giáo khmers kroms, các nhà đấu tranh cho dân chủ, các Dân oan khiếu kiện quyền đất đai, các nhà ly khai sử dụng Internet, các nhà lãnh đạo công đoàn, các thành viên giáo xứ Công giáo, các tín hữu Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài;

- chấm dứt tức khắc việc quản chế Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và Tăng sĩ Phật giáo khmer krom, Tim Sakhorn, được trả tự do tháng 5.2008 nhưng vẫn còn bị quản chế;

- cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được quyền sinh hoạt tôn giáo mà không bị chính quyền can dự, và để cho các tổ chức này được quyền tự do đăng ký trước các cơ quan công quyền nếu họ yêu sách; hoàn trả các giáo sản và chùa viện bị chính quyền Việt Nam tịch thu và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất;

- bãi bỏ các luật pháp Việt Nam nhằm kết tội các nhà bất đồng chính kiến hay các hoạt động tôn giáo căn cứ theo khái niệm mơ hồ xâm phạm "an ninh quốc gia", để các luật pháp này không áp dụng cho những cá nhân sử dụng các quyền cơ bản của họ về tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội và tự do tín ngưỡng;

- chấm dứt sự kiểm duyệt và kiểm soát của chính quyền Việt Nam đối với các cơ quan truyền thông quốc gia, kể cả mạng lưới Internet và điện tử, và cho phép phát hành nhật báo và tạp san tư nhân, độc lập;

4. Ủy nhiệm Chủ tịch Quốc hội Châu Âu chuyển giao Quyết Nghị này đến Hội đồng Châu Âu, Ủy hội Châu Âu, cũng như đến các Chính phủ thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Tổng Thư ký LHQ, Cao ủy Nhân quyền LHQ cũng như Chính phủ và Quốc hội Việt Nam.

(Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam dịch từ bản Anh và Pháp ngữ)

Hai Vụ Án, Một Vấn Đề




Trần Hùng

Chế độ cộng sản Việt Nam xử dụng nhiều thủ đoạn để cai trị người dân. Lúc trước họ dùng hình thức hạ đẳng là hộ khẩu và tem phiếu để nắm bao tử, khống chế con người. Kèm theo đó là hệ thống nhà tù dầy đặc khắp nơi. Chính sách đó đã kéo dài trong nhiều thập niên. Sau này, khi buộc phải mở cửa làm ăn với thế giới bên ngoài, không còn có thể xử dụng những biện pháp trấn áp quá lộ liễu và thô bạo nữa, thì hệ thống toà án được coi là công cụ thích hợp. Nhà nước độc tài không ngần ngại xử dụng luật rừng để triệt hạ những người đối kháng, hoặc trong việc tranh chấp nội bộ. Những vụ xử án này rất nhiều, năm nào, tháng nào cũng có. Liên tiếp trong 2 tháng 9 và 10 vừa qua, có 2 vụ xử án đã khiến cho dư luận hết sức quan tâm. Hai vụ xử này đã đưa đến cùng một hệ quả là CSVN bị phơi bầy trước công luận những nứt rạn có tính chất căn bản của chế độ.

Ông Nguyễn Văn Hải, tức Hoàng Hải, tức blogger Điếu Cày

Vụ án thứ nhất diễn ra vào đầu tháng 9. Ông Nguyễn Văn Hải, tức Hoàng Hải, tức blogger Điếu Cày bị xử về tội trốn thuế. Bản án dành cho ông là 2 năm rưỡi tù giam và 900 triệu đồng tiền phạt. Tội danh trốn thuế được nêu lên trên các cơ quan truyền thông quốc doanh, nhưng không ai tin vào điều này. Trước hết vì việc xử án được dàn dựng quá thô sơ và lộ liễu, không dựa trên bất cứ một bằng chứng nào. Ngoài ra, quá trình đấu tranh vì Hoàng Sa, Trường Sa của ông Hải cho thấy, việc xử án chỉ nhằm mục đích bịt miệng một tiếng nói chống ngoại xâm. Tóm tắt vụ này, luật sư Lê Công Định đã nói: "Quá bất công. Đó là một bản án bỏ túi mà tôi nghĩ là đã có một sự chuẩn bị trước".

Hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải

Vụ án thứ hai được thực hiện vào giữa tháng 10. Trong số 4 người bị đưa ra xét xử có 2 nhà báo của tờ Thanh Niên và Tuổi Trẻ. Những người này liên quan đến vụ tham nhũng nổi tiếng PMU18 xẩy ra từ hơn 2 năm nay. Vụ án này có nhiều tình tiết bất ngờ. Những cán bộ công an thuộc ban chuyên án và 2 nhà báo từng tường thuật vụ án, nay lại ngồi vào hàng ghế bị cáo… Tất cả giống như một trò xiếc, mà bàn tay phù thủy nằm ở thượng tầng lãnh đạo đảng cộng sản.

Qua 2 vụ xét xử nói trên, người ta càng nhìn thấy rõ thêm những điểm yếu của chế độ, đặc biệt là 5 vấn đề như sau.

Thứ nhất, người ta thấy rõ hơn tình trạng tranh chấp trong hàng ngũ thượng tầng lãnh đạo đảng cộng sản hoàn toàn là vì quyền lợi. Những diễn biến bất thường của vụ tham nhũng PMU18 trong hai năm trời qua cho thấy cả 2 phe bênh và chống đều tung hết chưởng lực ra để đọ sức với nhau, mà kết quả ngày hôm nay chưa phải là hồi chung cuộc. Khi thiếu tướng công an Phạm Xuân Quắc, nguyên Cục trưởng Cục C14, đảm nhiệm chức Trưởng ban chuyên án PMU18 và tuyên bố rằng "đây là vụ án đánh để đời, trước khi về hưu" thì mọi người đều hiểu rằng sự việc không chỉ nằm trong phạm vi cấp bộ, cấp sở với số tiền cá độ vài triệu đô la, mà là cả một đường dây xuyên suốt từ thượng tầng đến nhiều ngõ ngách trong mọi bộ phận của chế độ. Mức độ đấu đá cũng gay gắt hơn, người ta xử dụng những từ ngữ nặng nề để chửi nhau, và đòi triệt hạ nhau bằng cách làm mất chức, mất quyền, và thậm chí cả mất mạng.

Thứ hai, qua vụ xử án này, CSVN đã làm cho tất cả những lời lẽ tuyên truyền của họ về việc diệt trừ tham nhũng trở thành một trò hề. Số người ít ỏi còn hy vọng về một thiện chí không hề có của đảng cộng sản đã được thức tỉnh. Trước đây, nhà nước đã nhiều lần cảnh báo về tệ nạn tham nhũng, đã nhiều lần kêu gọi chống tham nhũng, và đã nhiều lần hứa hẹn diệt trừ tham nhũng, nay chỉ qua vụ án này, tất cả những nỗ lực nói trên đều trở thành vô nghĩa. Có thể nói rằng, qua vụ xử án này, chính đảng cộng sản đã thành công trong việc làm cho "tham nhũng Việt Nam vang danh thế giới".

Thứ ba, bản chất tay sai của chế độ cũng đã được chính CSVN tự lột trần trước dư luận trong và ngoài nước. Từ trước đến nay, người ta đã nói đến công hàm bán nước Phạm Văn Đồng, đã nói đến những hiệp ước phân định biên giới và lãnh hải làm thiệt hại lãnh thổ Việt Nam, đã nói đến thái độ khiếp nhược của CSVN trước chính sách xâm lấn của Trung cộng, người ta cũng từng căm phẫn trước việc công an đàn áp những cuộc biểu tình của thanh niên sinh viên yêu nước đòi Hoàng Sa và Trường Sa. Nay với bản án nhằm triệt hạ một người luôn thiết tha bảo vệ đất đai của cha ông để lại, CSVN đã tự khắc sâu nhãn hiệu tay sai, bán nước lên trên bộ mặt của mình.

Thứ tư, chưa bao giờ CSVN lại gặp những phản ứng bất thuận lợi của quốc tế như trong 2 cuộc xử án này. Về vụ Điếu Cầy, các cơ quan truyền thông uy tín quốc tế như AP, AFP, BBC, RFA, VOA, RFI, Ottawa Citizen, Bangkok Post… trong nhiều ngày đã liên tục đưa tin, bình luận. Báo điện tử iafrica.com bên Nam Phi cũng có bài về Điếu Cày. Nhiều tổ chức quốc tế tuyên bố ủng hộ Điếu Cày. Tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) rất nhiều lần lên tiếng kêu gọi trả tự do cho Điếu Cày. Tại đại học Harvard có dự án Global Voices Online nói về Điếu Cày. Tổ chức "International Freedom of Expression Exchange" chuyên tranh đấu cho tự do ngôn luận, đã lên tiếng về ông…

Sau vụ xử án 2 nhà báo, chỉ trong vòng một ngày đã có đến 165 bản tin thế giới nói về tham nhũng ở Việt Nam. Từ các hãng tin nổi tiếng như Reuters, AFP, DPA, AP, BBC News, cho đến báo chí từ Á sang Phi như: Manila Times, News Asia, South Africa. Ngay cả giới tài chánh cũng để ý đến như: Interactive Investor, Australian Broadcasting Corporation, EU Business, Financial Times… với đầy đủ các ngôn ngữ chính quốc tế như: Anh, Pháp, Ý, Đức, Thụy Điển, Na Uy, Hoà Lan, Ban Lan, Nga, Tiệp, Rumania, Đan Mạch, Tây Ban Nha… Liên Hiệp Châu Âu tỏ ý tiếc về bản án. Tổ chức Ân Xá Quốc Tế yêu cầu trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho nhà báo Nguyễn Việt Chiến. Bản thông cáo báo chí của sứ quán Mỹ tại Hà Nội viết: "Hoa Kỳ thất vọng với kết quả vụ xử". Tham tán Ngoại giao Thụy Điển tại Hà Nội phát biểu rằng: "Chúng tôi quan ngại về kết quả vụ xử này và cho rằng nó sẽ phát đi các thông điệp trái ngược về cam kết chống tham nhũng của chính phủ Việt Nam...

Thứ năm, vụ xử án đã tạo sự căm phẫn ngay trong hàng ngũ những người đang phục vụ cho chế độ, đặc biệt trong lãnh vực truyền thông. Chính nhà nước cũng đã cảm nhận được sự căm phẫn này nên đã phải đề ra nhiều biện pháp bất thường để ngăn chận. Nhiều tổng biên tập đã được chỉ thị phải canh chừng gắt gao cán bộ của báo mình để ngăn ngừa những trường hợp "xé rào", "quá độ" như báo Thanh Niên và báo Tuổi Trẻ đã lên tiếng bênh vực cho Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải, phê phán việc làm của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, việc ngăn ngừa không mang lại hiệu quả. Việc hàng mấy trăm tờ báo xếp hàng đi theo lề phải, chỉ loan tải 1 bản tin ngắn ngủi một cách bất thường y như nhau, đã để lộ rõ bàn tay dàn dựng của nhà nước, và một lần nữa tô đậm chức năng bồi bút của nền báo chí quốc doanh. Trong khi đó, rất nhiều cán bộ vẫn tìm cách phổ biến quan điểm phản kháng của mình trên những phương tiện truyền thông ngoài luồng như báo điện tử, blogs, hay báo đài ngoại quốc. Trong thời đại truyền thông điện tử ngày nay, những quan điểm này cũng có khả năng tác động đến nhiều người dân trong nước, và là một thách thức lớn cho chế độ.

Trong tất cả những vấn nạn nêu trên, việc hàng ngũ cán bộ truyền thông quốc doanh, từng được coi là một trong những thành trì căn bản của chế độ, nay cũng có những vết rạn nứt trầm trọng, là điều mà chế độ đặc biệt lo âu hơn hết. Chính việc đàn áp trắng trợn những người có tấm lòng với quê cha đất tổ, những người có thiện tâm diệt trừ tham nhũng làm sạch xã hội, đã khiến cho nhiều cán bộ nhận thức được bộ mặt dối trá của chế độ, và nhận định rằng "nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do lỗi của cả hệ thống chính trị". Đồng thời họ kêu gọi "đã đến lúc cả nước phải nghĩ đến việc thay đổi guồng máy". Đó không phải là những lời kêu gọi của bất cứ một thế lực nào từ bên ngoài, mà nó được đăng ngay trên báo Thanh Niên của đảng!. Hai vụ xử án vừa qua đã giúp nhiều người nhìn ra cốt lõi của vấn đề.