Phật tử Bảo Lộc nát lòng từ biệt Tăng thân
Bị cấm đoán, kiểm duyệt, trù dập và bỏ tù Sáu nhà văn Việt lãnh giải nhân quyền Hellman/Hammett
(New York, 13/10/2009) - Hôm nay Tổ chức Giám Sát Nhân quyền (HRW) cho biết có đến sáu nhà văn người Việt nằm trong số 37 nhà văn đến từ 19 quốc gia sẽ lãnh nhận giải thưởng nhân quyền cao quý Hellman/Hammett của năm nay. Đây là giải thưởng dùng để vinh danh những cống hiến của họ vào việc góp phần đem lại sự tự do bày tỏ quan điểm và sự cam đảm của họ vì phải luôn đương đầu với mọi trù dập của nhà cầm quyền.
Họ là những cây viết và cũng là nhà hoạt động dân chủ nhân quyền đã và đang bị trù dập trong thời gian qua. Ngoài những kinh nghiệm mà họ đã trải qua, họ còn là những người đại diện cho những nhà văn nhà báo khác hiện đang bị nhà nước trù dập, bách hại.
Bà Elaine Pearson, phó Giám đốc phân Bộ Á Châu HRW nói: "Vinh danh họ là làm nổi bật những sự việc đang xảy ra ở Việt Nam, mà hiện nay còn nhiều người trên thế giới chưa biết đến. Đây là nơi mà nhà nước thẳng tay trù dập các tiếng nói đấu tranh ôn hòa đòi hỏi tự do ngôn luận, hệ thống báo chí truyền thông độc lập và quyền được tự do sử dụng internet mà không bị kiểm duyệt, và nhà nước này cũng làm bất cứ điều gì miễn là có thể đàn áp những tiếng nói này.
Những người lãnh giải năm nay từ Việt Nam gồm có:
- Một chủ Blog bị giam tù vì mạnh miệng đưa ra lời kêu gọi cải cách dân chủ.
- Nhiều cây viết có chân trong tờ báo Tổ Quốc, một tờ báo "chui".
- Một vị tu sĩ Phật giáo từng ở tù 26 năm trời chỉ vì niềm tin tôn giáo và viết sách.
- Một nhà văn chuyên chỉ trích gay gắt các vấn đề xã hội, và cũng là một cựu sĩ quan quân đội cộng sản; và
- Một cây viết là người dân tộc Tày đến từ một tỉnh phía Bắc. Là một đảng viên nhưng ông đã bị khai trừ khỏi Đảng sau khi lên tiếng ủng hộ dân chủ.
Hai trong số các vị này là cô Phạm Thanh Nghiên và cựu trung tá Trần Anh Kim hiện đang ở trong tù, đang chờ xét xử các tội liên quan đến hoạt động dân chủ và viết lách.
Trong những năm vừa qua, có khá nhiều tiếng nói đối lập đã bị bắt giam. Đầu tháng 10 năm 2009, tòa án ở Hải Phòng và Hà Nội đã kết án tù 9 nhà đấu tranh, bao gồm nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, là người đã lãnh giải Hellman/Hammett năm 2008. Bà Trần Khải Thanh Thủy, một nhà văn đã lãnh giải Hellman/Hammett, là người từng bị giam tù 9 tháng vào năm 2007, mới đây đã bị công an đánh đập và bắt giam hôm 8 tháng 10, chỉ vì bà muốn đến tòa án ở Hải Phòng và Hà Nội để nghe xử án các bạn của mình.
Bà Elaine Pearson phát biểu "Hơn lúc nào hết khi nhà nước Việt Nam đang gia tăng đàn áp, thì việc công nhận các nhà văn bị giam cầm là điều quan trọng cần phải làm.
Mục đích của giải Hellman/Hammett là cung cấp tài chánh để giúp đỡ một phần nào những nhà văn bị trù dập do bị mất việc hoặc cho khoảng thời gian ngồi tù chỉ vì đã dám lên tiếng đối đầu với chế độ".
Nhà cầm quyền Việt Nam đã sử dụng những hình thức phong tỏa kinh tế một cách trực tiếp và gián tiếp để trù dập tiếng nói của những nhà văn này. Họ luôn bị quấy phá, hành hung, triệu tập lên làm việc, giam tù bằng những cái tội vu vơ, bị áp lực đuổi việc, cách ly với xã hội chung quanh, bị công an câu lưu và thẩm vấn, bị đem ra "đấu tố" trước công chúng và bị những tay sai đầu gấu hành hung đánh đập. Ngoài những nhà văn là nạn nhân trực tiếp, thì những nhà báo làm việc cho báo chí nhà nước cũng bị buộc phải "giữ mình" nghiêm ngặt đối với những bài viết của mình.
Hellman/Hammett là giải thưởng được tổ chức hằng năm do Tổ chức Giám sát Nhân quyền đặt ra và được trao cho các nhà văn bị chính quyền trù dập khắp nơi trên thế giới. Giải này bắt đầu từ năm 1989 khi nhà biên kịch người Mỹ Lillian Hellman ghi rõ trong di chúc rằng tài sản của bà sẽ được sử dụng để giúp đỡ trường hợp các nhà văn gặp nạn sau khi bày tỏ chính kiến.
Chính kinh nghiệm của người bạn đời lâu năm, tiểu thuyết gia Dashiell Hammett và kinh nghiệm của bản thân mình, đã thôi thúc tâm tư của bà Hellman, bởi vì trong những năm của thập niên 50s cả hai người từng bị các ủy ban của hạ viện quốc hội Mỹ triệu tập vì có những hoạt động liên quan đến niềm tin chính trị và các hội đoàn cánh tả. Những sự việc này đã ảnh hưởng đến sự nghiệp của bà Hellman, trong khi ông Hammett có một thời gian phải ngồi tù.
Năm 1989, người thi hành di chúc của bà Hellman đã yêu cầu Tổ chức Giám sát Nhân quyền (HRW) hoạch định một chương trình giúp đỡ các nhà văn bị trù dập do lên tiếng chỉ trích các quan chức chính phủ hoặc các có các bài viết tố cáo.
Hơn 20 năm qua, có hơn 700 nhà văn từ 91 quốc gia đã được trao giải này, với giá trị lên đến $10,000, tổng cộng hơn $3 triệu đô Mỹ. Chương trình này cũng giúp đỡ tài chánh cho những trường hợp khẩn cấp khi một nhà văn cần tiền để rời bỏ quốc gia của mình hoặc là những trường hợp cần chữa trị bệnh khẩn cấp sau khoảng thời gian ngồi tù hoặc bị tra tấn.
Trong số 37 người lãnh giải năm nay, mỗi nước Trung Quốc, Việt Nam và Iran đều có 6 nhà văn được trao giải. Những người còn lại đến từ Miến Điện, Columbia, Ai-Cập, Eritrea, Gambia, Iraq, Bắc Hàn, Pakistan, Nga, Rwanda, Sri Lanka, Syria, Tây Tạng, Thổ Nhĩ Kỳ, Tunisia và Zimbabwe.
Tên tuổi của 6 nhà văn Việt Nam lãnh giải năm nay:
Nguyễn Hoàng Hải, tức Blogger Điếu Cày, 57 tuổi, là một Blogger nổi tiếng và bị bắt giam chỉ vì đưa ra những lời kêu gọi dân chủ hóa và chấm dứt tham nhũng bất công ở Việt Nam. Ông là một cựu chiến binh, đã sử dụng bút hiệu "Điếu Cày" để đưa lên trang blogs của mình nhiều bài viết chỉ trích thái độ ươn hèn bạc nhược của nhà nước VN đối với nước láng giềng Trung Quốc. Năm 2006, ông thành lập "Câu lạc bộ các nhà báo tự do". Kể từ đầu năm 2008, ông Điếu Cày bắt đầu bị công an theo dõi nghiêm ngặt trước cuộc rước đuốc Olympic Bắc Kinh qua Sài Gòn. Ông bị bắt ngày 19/04/2008 và bị kết tội "trốn thuế", mà nhiều người cho rằng chỉ là cái cớ để bắt ông về các bài viết trên Blog và các hoạt động đấu tranh khác. Ông bị giam giữ cho đến tháng 9 năm 2008 và bị xử án 2 năm rưỡi tù giam. Thoạt đầu ông bị tạm giam tại khám Chí Hòa Sài Gòn, nhưng sau đó bị chuyển về giam tại trại tù Cái Tàu, Cà Mau vào đầu năm 2009. Muốn biết thêm chi tiết về Điếu Cày, xin bấm vào đây.
Nguyễn Thượng Long, 62 tuổi, một thầy giáo trung học, đã trở nên một cây viết nổi bật trong làng báo đối kháng tại Việt Nam, kể từ sau khi ông nghỉ hưu năm 2007. Khi còn dạy học, ông đã từng nổi tiếng với nhiều bài viết chỉ trích hệ thống giáo dục tại Việt Nam. Ông mô tả sự tham nhũng có hệ thống giai tầng, cũng như sự giối trá trong thi cử và mua bán đề thi. Năm 2001, tại một hội nghị giáo dục thường niên tỉnh Hà Tây, ông có một bài phát biểu nảy lửa lên án các tệ đoan trong ngành giáo dục. Mặc dầu bài phát biểu này được đăng trên nhiều tập san và báo trong nước, nhưng ông vẫn bị đình chỉ công việc 5 năm. Năm 2007, tin rằng không có cách nào có thể cải tổ nền giáo dục từ trên xuống, ông nghỉ việc và gia nhập tờ báo Tổ Quốc, tiếng nói của những người đối lập. Kể từ khi gia nhập tờ báo này, ông liên tục bị hăm dọa, giam giữ, thẩm vấn và bị cấm ra khỏi nơi cư trú.
Phạm Thanh Nghiên, 33 tuổi, một nhà tranh đấu và là một cây viết có tài, đã bị bắt giữ cách đây hơn 1 năm. Vào năm 2007, khi công ty dệt len nhà nước, nơi cô làm việc bị phá sản, cô Nghiên bắt đầu hoạt động tranh đấu cho dân oan bị cướp đất và viết các bài kêu gọi dân chủ và nhân quyền. Nhà cầm quyền ngăn cấm cô không cho tham dự phiên tòa xử nữ Luật sư Lê Thị Công Nhân, và từ đó cô liên tục bị công an hăm dọa, trù dập, tra vấn. Tháng 6 năm 2008, cô Nghiên bị công an bắt giữ sau khi đồng ký tên vào một lá thư gởi đến Bộ Công An để xin phép tổ chức một cuộc biểu tình ôn hòa chống tham nhũng. Một vài ngày sau, cô bị một đám côn đồ tấn công và dọa giết nếu vẫn còn tiếp tục "những hành động thù nghịch" chống đối nhà nước. Vào thàng 9 năm 2008, cô Nghiên bị bắt và từ đó đến nay bị giam tại trại giam B-14 Thanh Liệt, Hà Nội. Muốn biết thêm chi tiết về Phạm Thanh Nghiên, xin bấm vào đây.
Thượng tọa Thích Thiện Minh, 56 tuổi, một tu sĩ Phật giáo, nguyên quán tỉnh Bạc Liêu, miền Nam, bị tù chỉ vì lên án chính sách bách đạo của nhà nước cộng sản. Ông phải trải qua 26 năm tù (1976 - 2005) trong các nhà tù từ Xuân Phước, cho đến Xuân Lộc, và nhiều bị tra tấn, ngược đãi. Kể từ khi ra khỏi tù, ông không được trở về nguyên quán để tiếp tục tu hành. Ông tiếp tục bị quản chế và ngược đãi vì đã thành lập Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo. Vì thế ông trở thành phát ngôn nhân cho các tù nhân chính trị bị ngược đãi. Năm 2007, thầy Thích Thiện Minh cho ra mắt cuốn “Hồi ký 26 năm lưu đày", kể lại kinh nghiệm của bản thân mình trong thời gian bị tù đày cũng như tố cáo chế độ trại tù hà khắc.
Trần Anh Kim, còn có tên gọi là Trần Ngọc Kim, 61 tuổi, là một cựu trung tá trong Quân đội Nhân dân VN, hiện đang chờ ngày ra tòa xét xử vì các bài viết và hoạt động dân chủ. Ông Trần Anh Kim nổi tiếng vì từng thu thập chữ ký để tố cáo các quan chức tham nhũng trong hàng ngũ Đảng. Năm 1991, trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 7, công an bắt ông với tội danh "lạm dụng quyền hạn để ăn cắp tài sản nhà nước". Sau đại hội, ông được trả tự do và khôi phục chức vụ. Năm 1994, ông bị bắt lần nữa, bị giam 2 năm tù và giáng cấp xuống binh nhì. Sau một năm giam cầm, ông được trả tự do, và bắt đầu cuộc vận động chống lại bản án dành cho ông trước đây. Năm 1997, trong một nỗ lực hòa giải, ông được thăng chức Trung tá. Nhưng ông tiếp tục "cứng đầu", đòi hỏi công lý và bị sa thải khỏi quân đội, bị mất tất cả quyền lợi, kể cả các khoản phụ cấp, hưu dưỡng. Năm 2006, ông trở thành một cây bút đấu tranh nổi tiếng, rồi tham gia Khối 8406. Ngoài ra ông còn là thành viên của Ban biên tập báo Tổ Quốc. Ngày 6/07/2008, ông bị bắt với các tội danh chiếu theo Điều 88 Bộ Luật Hình Sự như "tuyên truyền chống phá nhà nước" và tham gia Đảng Dân Chủ Việt Nam.
Vi Đức Hồi, 54 tuổi, dân tộc Tày ở Lạng Sơn và là một viên chức Đảng ở cấp huyện, và bị khai trừ khỏi Ðảng và bị quản chế. Ông Vị Đức Hồi sinh ra trong một gia đình cộng sản nòi, có bằng cử nhân kinh tế, chính trị và luật. Ông gia nhập đảng năm 1980 và nhanh chóng thăng tiến lên một vị trí ở cấp huyện. Năm 2006, ông bắt đầu viết một số bài chỉ trích đảng và kêu gọi cải cách dân chủ - thoạt đầu là sử dụng bút hiệu, nhưng sau khi bị khai trừ khỏi Ðảng thì sử dụng ngay tên thật của mình. Vào tháng 3 năm 2007, sau khi biết được ông chính là tác giả của nhiều bài viết dân chủ, ông bị bắt, bị khai trừ khỏi đảng và mất chức. Kể từ đó, ông bị quản chế nghiêm ngặt, công an canh gác suốt ngày ở bên ngoài nhà ông và liên tục đe dọa những ai đến thăm ông. Ông thường xuyên bị triệu tập lên công an tỉnh và Bộ để thẩm cung và hai lần bị đưa ra đấu tố tại địa phương. Vợ của ông, một cô giáo, cũng bị mất việc và khai trừ khỏi Ðảng chỉ vì từ chối tố cáo chồng mình.
Để xem đầy đủ chi tiết danh sách các nhà văn nhận giải năm nay, hãy bấm vào đây.
Tin ngắn : Tài xế taxi Vinasun tiếp tục đình công
Phía hai bên đường, khoảng 100 chiếc taxi đã xếp thành hàng trên vỉa hè. Các taxi đồng loạt treo nhiều biểu ngữ với nội dung "Yêu cầu Công ty Vinasun trả lại %".
Đây là ngày thứ 5 liên tiếp các tài xế Vinasun đình công để đòi hỏi tỷ lệ ăn chia hợp lý. Sự việc bắt đầu từ ngày 15/09, khoảng trên 50 tài xế đã tập hợp tại đường Tên Lửa (Tân Bình) để phản đối công ty
Biểu ngữ : "Yêu cầu ông Tạ Long Hỷ từ chức" sau khi ông Hỷ có lời lẽ bị cho là xúc phạm giới tài xế đình công
Trước đó, trong một buổi làm việc giữa hai bên, đại diện giới tài xế taxi kiên quyết yêu cầu công ty hỗ trợ 100% bù giá xăng hoặc là tăng tỷ lệ ăn chia cho tài xế thêm 3%.
Vinasun hiện là một hãng Taxi lớn nhất tại Sài Gòn, với 2.200 đầu xe và trên 8000 tài xế
(CLB Nhà Báo Tự Do)
Lăng Cô - Huế : Công an khủng bố & chiếm trường học của giáo xứ Loan Lý
HUẾ - Loan Lý là một giáo xứ nhỏ thuộc Tổng giáo phận Huế với khoảng gần 900 tín hữu, tọa lạc trên địa bàn thôn Loan Lý, xã Lộc Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là một giáo xứ cũ thuộc tỉnh Quảng Bình, đã tỵ nạn Cộng sản vào Thừa Thiên từ năm 1954, và được chính quyền đệ nhất Cộng Hòa cho lập cư dưới chân đèo Hải Vân, giữa biển Đông và đầm Lăng Cô còn gọi là vụng An Cư. Khoảng đất này đã do các giáo dân khai phá từ năm 1954 và mặc nhiên được chính quyền cũ thừa nhận.
Giáo xứ Loan Lý có một ngôi trường (gần nhà thờ) bị nhà cầm quyền CS tự tiện trưng dụng từ năm 1975.
Năm 1995, nhà cầm quyền Cộng sản tại xã Lộc Hải thông tri cho các hộ dân và các cơ sở tôn giáo khai báo đất đai của mình để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Giáo xứ Loan Lý đã thành thật và rõ ràng khai báo với nhiều bằng chứng về diện tích đất nhà thờ cùng các cơ sở liên hệ, nhưng ban địa chính thuộc Ủy ban Nhân Dân xã không thừa nhận và từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho giáo xứ.
Năm 1999, trong ý đồ cho công ty Hương Giang thuê đất xây khách sạn và cơ sở du lịch, Hội đồng xã ra lệnh thu hồi đất của một số gia đình dân chúng thuộc giáo xứ nằm kề cận nhà thờ. Các gia đình này chỉ được đền bù bằng một số tiền tượng trưng khiến giáo dân vô cùng phẫn nộ. Nhà nước cũng âm thầm cấp cho công ty Hương Giang đất của nhà thờ mà giáo xứ chẳng hay biết.
Sau đó, công an tỉnh, công an huyện, công an xã tràn đến Loan Lý rất đông, mở đầu chiến dịch khủng bố. Công an vào từng nhà các giáo dân Loan Lý nói trên, hăm dọa từ nay sẽ không giải quyết mọi thủ tục giấy tờ cho họ và cho con cái họ. Công an còn vào từng nhà giáo dân, giở trò xuyên tạc, nói xấu Giáo hội và giáo quyền đủ chuyện.
Ngày 21 tháng 7, cha quản xứ Giuse Cái Hồng Phượng bị triệu đến văn phòng xã và buộc phải mang theo giấy tờ, nhưng vì không có nên ngài chỉ mang theo các bô lão để làm chứng. Sau hơn một giờ mà chưa thấy cha sở cùng các bô lão trở về, toàn thể giáo dân Loan Lý trẻ già trai gái đã cùng nhau kéo đến trụ sở Ủy ban xã để hỗ trợ chủ chăn, đồng thanh làm chứng về đất của giáo xứ và phản đối nhà cầm quyền gian dối thô bạo.
Ngày hôm sau 22 tháng 7, đức Tổng giám mục Huế là Stephano Nguyễn Như Thể đã mạnh mẽ phản đối việc nhà cầm quyền đàn áp khủng bố giáo dân Loan Lý, bất công trong việc đền bù cho dân khi lấy đất của dân, gian trá trong việc chiếm đất của nhà thờ. Tòa Tổng Giám Mục Huế hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh giành lại đất nhà thờ Loan Lý mà chính quyền đã cưỡng chiếm để bán cho công ty khách sạn Hương Giang làm chốn giải trí ăn chơi.
Cách đây hơn một tuần, chính quyền CS cho người tới đập phá ngôi trường đó, gọi là để xây lại trường mới mà không có ý kiến của Linh mục quản xứ và Hội đồng Giáo xứ. Thế là giáo dân ra ngăn cản.
Hôm Chúa nhật 13 tháng 9, giáo xứ làm lễ khai mạc các Lớp giáo lý (sẽ học trong các phòng của trường nói trên). Thế là từ sáng sớm, chính quyền và công an địa phương (có cả Công an tỉnh, huyện về hỗ trợ) đã đến bao vây ngôi trường để không cho các thiếu nhi Công giáo vào học. Chính quyền địa phương và cảnh sát đến, đuổi các em ra khỏi phòng học, khoá hết cửa lại, với ý định là chiếm lấy ngôi trường là tài sản của giáo xứ.
Họ thậm chí phong tỏa Giáo xứ bằng cách chặn cả hai đầu đường Quốc lộ 1 (là con đường chạy ngang qua Giáo xứ). Giáo dân toàn giáo xứ đã đến hỗ trợ cho cha xứ.
Vì bị chặn các cửa lớp, nên Cha Sơn cho phép các em bắt đầu năm học giáo lý ngay ở ngoài sân trường. Các sơ và giảng viên giáo lý cho các em học giáo lý, cầu nguyện, ca hát và nhãy múa. Trong khi các em học giáo lý và sinh hoạt, chính quyền địa phương, công an với máy quay phim và chụp hình vể những gì đang xãy ra, chờ đợi cơ hội để ra tay.
Chiều ngày 13 tháng 9, Công an rút lui.
Nhưng tối 13 tháng 9, từ 22g đêm đến 2g sáng rạng ngày 14 tháng 9, công an và dân quân lại kéo về phong tỏa từng nhà giáo dân, phong tỏa ngôi trường, quyết tâm cướp trường bằng cách đem cọc bê-tông, giây thép gai rào lại và dựng bảng trường. Khoảng một giờ sáng, trong khi mọi người đang ngũ, chính quyền bắt đầu đựng hàng rào chung quanh trường. Chuông nhà thờ reo báo hiệu sự việc, tất cả phụ nữ và trẻ em khéo đến để bảo vệ tài sản của giáo xứ. Giáo dân đã nhổ cọc, xé bảng. Với những chiếc xe vận tải làm đường và xây dựng, chính quyền địa phương muốn chiếm lấy ngôi trường. Thế là cuộc xô xát bắt đầu.
Kết quả của cuộc xô xát là nhiều phụ nữ và trẻ em bị thương. Hai em thành niên bị bắt vì can thiệt khi công an đánh mẹ của hai cháu. Chính quyền địa phương đặt lên hàng rào, và giáo dân thì phá xuống. Lời qua tiếng lại đôi bên, vũ phu từ công an và chính quyền xãy ra suốt đêm. Giáo dân tay không chân đất, dùng hết sức hơi để bảo vệ tài sãn của giáo hội.
Khoảng 7g30 ngày 14 tháng 9, công an, quân đội và dân chúng (vùng lạ) lại kéo đến cả hơn ngàn người (vượt xa con số giáo dân) cùng những vật liệu để làm hàng rào. Công an đem theo vòi xịt nước, roi điện và lựu đạn cay. Họ phong tỏa hai đầu đường và đang kêu gọi giáo dân giải tán, vì giáo dân Loan Lý nữ nam già trẻ đang nắm tay nhau bao quanh ngôi trường của họ.
Đang khi đó thì cha sở Ngô Thanh Sơn bị đau tim đã phải đem đi bệnh viện. Nghe nói khoảng 8g sẽ có phái đoàn các cha trong Hạt đến thăm. Nhưng không biết có vào hiện trường được không, vì hai đầu đường đã bị phong tỏa.
Chính quyền địa phương và chính quyền cấp cao tăng cường thêm nhân lực, cảnh sát, xe xịt nước và các trang bị khác để chống lại những người giáo dân tay trắng. Chính quyền đóng đường quốc lộ số 1, chạy ngang qua giáo xứ. Họ dựng cổng hai đầu làng không cho ai đi vào và đi ra.
Cùng ngày, ông Hồ Xuân Mãn, Bí Thư Tỉnh ùy tỉnh Thừa Thiên Huế đã huy động một lưc lượng hơn 1500 người gồm Bộ đội, công an cơ động công an Biên phòng, và những phụ nữ được bịt mặt đã tới bao vây Giáo xứ Loan Lý. Ngoài sự có mặt của ông Bí thư tỉnh ùy Tinh Thừa Thiên có sự hiện diện của các ông như sau: Ông Thiên, chủ tịch Ủy Ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế và Ông Tòan, Giám đốc sở công an dân tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Những cán bộ cao cấp của thi Trấn Lăng Cô cung có mặt trong cuộc đàn áp này gồm: Ông chủ tịch Thị Trấn Lăng Cô, ông Lê Vân Tình; Ông Phó chủ tich Thị Trấn Lăng Cô, ông Dương Quang Trung; Truởng công an thi Trấn, ông Truơng thanh Sơn; Phó công an thị Trấn, ông Nguyễn Tiến Dũng.
Những cán bộ thuộc Huyện Phú Lộc cũng có mặt trong cuộc đàn áp Giáo dân xứ Loan Lý gồm: Chủ tịch Huyện, ông Cái Vĩnh Tuấn; Phó chủ tịch Huyện, ông Nguyễn Thanh Hà; Trưởng công an Quận, ông Tuấn; Phó công an Huyện, ông Le Quang Y.
Đang khi có chính quyền địa phương cho xây cất bức tường chung quanh nhà trường mà họ giờ đây chiếm đóng bất hợp pháp.
Giáo dân không vô vọng nhìn cảnh chính quyền chiếm trường học của họ một cách bất công và tàn bạo mà không làm gì được!
Xin quý vị tiếp tục cầu nguyện cho giáo xứ Loan Lý, nhất là cho các trẻ em và phụ nữ.
Chúa Nhật 13/9/2009
Khoảng 8:00 sáng (giờ địa phương), các em học sinh, các sơ, giảng viên giáo lý và phụ huynh, với cha chánh xứ Phao lô Ngô Thanh Sơn, cùng nhau tụ trước cổng nhà thờ và xân trường để bắt đầu năm học giáo lý. Giáo xứ Loan lý thuộc địa phận Huế.
Chính quyền địa phương và cảnh sát đến, đuổi các em ra khỏi phòng học, khoá hết cửa lại, với ý định là chiếm lấy ngôi trường là tài sãn của giáo xứ.
Dưới sự hướng dẫn của Cha Sơn, các em bắt đầu năm học giáo lý ngay ở ngoài sân trường. Các sơ và giảng viên giáo lý cho các em học giáo lý, cầu nguyện, ca hát và nhãy múa. Trong khi các em học giáo lý và sinh hoạt, chính quyền địa phương, công an với máy quay phim và chụp hình vể những gì đang xãy ra, chờ đợi cơ hội để ra tay.
Sau giờ giáo lý, trong giờ sinh hoạt các em hát bài “Cái nhà là nhà của ta, công khó ông cha lập ta, ta quyết tâm giũ gìn” trước sự tức giận của chính quyền địa phương và công an.
Cha Sơn biết là chuyện sẽ không ổn sẽ xãy ra, nên cho các em giải tán, trong khi công an và chính quyền đứng nhìn, sẵn sàng hành động. Cha và mọi người hy vọng có một giải pháp ôn hoà.
Chuyện không dừng lại ở đó. Với những chiếc xe vận tải làm đường và xây dựng, chính quyền địa phương muốn chiếm lấy ngôi trường, tài sãn của giáo xứ và giáo hội. Khoảng một giờ sang thứ hai, (giờ địa phương), trong khi mọi người đang ngũ, chính quyền bắt đầu đựng hàng rào chung quanh trường. Chuông nhà thờ reo báo hiệu sự việc, tất cả phụ nữ và trẻ em khéo đến để bảo vệ tài sản của giáo xứ. Thế là cuộc xô xát bắt đầu.
Kết quả của cuộc xô xát là nhiều phụ nữ và trẻ em bị thương. Hai em thành niên bị bắt vì can thiệt khi công an đánh mẹ của hai cháu. Chính quyền địa phương đặt lên hÀng rào, và giáo dân thì phá xuống. Lời qua tiếng lại đôi bên, vũ phu từ công an và chính quyền xãy ra suốt đêm. Giáo dân tay không chân đất, dùng hết sức hơi để bảo vệ tài sãn của giáo hội.
Sáng thứ Hai, chính quyền địa phương và chính quyền cấp cao tăng cường thêm nhân lực, cảnh sát, xe xịt nước và các trang bị khác để chống lại những người giáo dân tay trắng. Chính quyền đóng đường quốc lộ số 1, chạy ngang qua giáo xứ. Họ dựng cổng hai đầu làng không cho ai đi vào và đi ra.
Chuyện gì sẽ tiếp tục xảy ra chúng ta khó mà đoán được, nhưng nếu không ai can thiệp hoặc lên tiếng, những người giáo dân vô tội tiếp tục bị hành hạ và ngược đãi.
Xin quý vị tiếp tục cầu nguyện cho giáo xứ Loan Lý, nhất là cho các trẻ em và phụ nữ.
Đàn áp Blogger : Muốn bắt thì bắt muốn thả thì thả
(CLB Nhà báo Tự do) Sự kiện nhà cầm quyền Việt Nam bắt giam và trả tự do cho blogger Người Buôn Gió, Mẹ Nấm và nhà báo Phạm Đoan trang vì có những hành động yêu nước đã khiến dư luận trong nước và quốc tế phản ứng mạnh mẽ. Sự kiện này cũng khiến dư luận nhớ đến blogger Điếu Cày của CLB Nhà báo Tự do hiện vẫn còn bị giam giữ và kỷ luật gắt gao. Xin giới thiệu bài về vấn đề này trên RFA
Sau khi nhiều cơ quan truyền thông quốc tế lên tiếng quan ngại, hai blogger Người Buôn Gió và Mẹ Nấm cùng với nhà báo Phạm Đoan Trang đã được trả tự do.
Trong lúc đó nhà báo tự do Nguyễn Hoàng Hải còn được biết rộng rãi hơn qua bút danh Điếu Cày bị bắt giam từ ngày 19 tháng Tư năm 2008 vì đã biểu tình chống Trung Quốc về Trường Sa và Hoàng Sa, nhưng lại nhận bản án 30 tháng về tội trốn thuế và không hề được giảm án hay ân xá trong dịp lễ vừa qua.
Dư luận vẫn đang theo dõi blogger Điếu Cày trong lúc bị di chuyển từ trại giam này sang trại giam khác với những quan tâm đặc biệt dành cho ông.
Quyết định bất ngờ của công an
Hai Blogger Người Buôn Gió tức anh Bùi Thanh Hiếu và Mẹ Nấm tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh cùng với nhà báo Phạm Đoan Trang có lẽ không ngờ rằng mình được thả ra sớm như vậy sau khi cơ quan an ninh bắt giữ với cáo buộc là xâm phạm an ninh quốc gia.
Đây là một động thái hiếm hoi của công an Việt Nam dành cho các người bị cáo buộc tội danh này khi họ áp dụng luật tạm giữ hành chánh tối đa là chín ngày cho các nghi can vừa nói.
Đây là một động thái hiếm hoi của công an Việt Nam dành cho các người bị cáo buộc tội danh này khi họ áp dụng luật tạm giữ hành chánh tối đa là chín ngày cho các nghi can vừa nói.
Cả ba người đều có chung một hành động giống nhau dẫn tới việc bắt giữ khẩn cấp của công an đó là trên trang blog và bài viết của họ có nội dung chống lại việc Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ba người này may mắn hơn một blogger khác, cũng hành động như họ là tham gia biểu tình chống trung Quốc trước khi cuộc rước đuốc Olympic Bắc Kinh xảy ra, đó là nhà báo tự do Nguyễn Hoàng Hải còn được biết là chủ nhân của trang blog Điếu Cày.
Chống Trung Quốc: 2 năm 6 tháng tù giam
Toà án Quận 3, TP Hồ Chí Minh, tuyên mức án 30 tháng tù giam cho ông Nguyễn Văn Hải (tức blogger Điếu Cày) và vợ cũ của ông là bà Dương Thị Tân nhận mức án cải tạo không giam giữ 16 tháng và thử thách ba năm về tội trốn thuế.
Rất là không công bình với chúng tôi vì chúng tôi nào có tội gì ngoài cái tội yêu nước của ông Hải?
Bà Dương Thị Tân
Chúng tôi liên lạc với bà Dương Thị Tân để hỏi bà có ý kiến gì khi hai logger Người Buôn Gió và Mẹ Nấm cùng với nhà báo Phạm Đoan Trang chỉ bị tạm giữ có 9 ngày trong khi chồng bà là blogger Điếu Cày lại bị bản án nặng nề như thế, bà Tân cho biết: “Rất là không công bình với chúng tôi vì chúng tôi nào có tội gì ngoài cái tội yêu nước của ông Hải?”
Nhạc sĩ lão thành Tô Hải, có lẽ là một blogger già nhất Việt Nam, người cùng với blogger Điếu Cày tham gia cuộc biểu tình cho biết: “Công tác ngoại giao thế nào chưa biết nhưng ông Hải tức Điếu Cày thì đã vào tù rồi! Dạo đó tôi cũng tham gia nhưng có lẽ họ thấy già quá nên không bắt!”
Người yêu mến blogger Điếu Cày trông mong ông sẽ được ân xá vào ngày lễ 2 tháng 9 vừa qua vì tin rằng việc giam giữ ông như vậy là quá đủ cho chính sách nâng cao quan hệ Việt Trung của nhà nước. Quan trọng hơn nữa là dư luận vẫn tin tưởng mạnh mẽ rằng ông Nguyễn Hoàng Hải là người vô tội.
Thủ tục đầu tiên làm đơn xin nhận tội ?
Luật sư Lê Trần Luật giải thích thủ tục miễn giảm án hay ân xá có những quy định như sau: “Giảm án tha tù là trong thời gian cải tạo phải tốt và thực hiện hai phần ba bản án. Còn ân xá thì không cần thực hiện hai phần ba nhưng phải làm đơn nhận tội và xin được khoan hồng.”
Giảm án tha tù là trong thời gian cải tạo phải tốt và thực hiện hai phần ba bản án. Còn ân xá thì không cần thực hiện hai phần ba nhưng phải làm đơn nhận tội và xin được khoan hồng
LS.Lê Trần Luật
Thủ tục này có lẽ là nguyên nhân khiến cho một loạt các nhà đấu tranh cho dân chủ bị bắt trước đây ít lâu, xuất hiện trên truyền hình Việt Nam nhận tội một cách công khai với hy vọng hưởng sự khoan hồng của nhà nước. Riêng blogger Điếu Cày thì khác.
Theo lời kể của vợ ông là bà Dương Thị Tân thì hai ông bà không có lý do gì để nhận tội, dù chỉ nhận để được ân xá, bà Tân kể phản ứng của chồng bà như sau: “Họ bắt chúng tôi nhận tội để được ân giảm thì chúng tôi thấy không có lý do gì để nhận cả, Ông Hải cho họ biết là sẽ ở cho đến ngày cuối cùng.”
Sau khi hai blogger Người Buôn Gió và Mẹ Nấm cùng với nhà báo Phạm Đoan Trang được thả, bà Nguyễn Phương Nga, người mới đảm nhận vai trò phát ngôn viên cho Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố với báo chí rằng: "Cơ quan an ninh đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật Việt Nam khi tiến hành tạm giữ những người này. Đáng tiếc một số tổ chức và cá nhân đã cố ý thổi phồng sự việc này để xuyên tạc với dụng ý xấu".
Hãy làm gì nhà nước nói đừng làm gì nhà nước làm
Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ nhận định lới tuyên bố này là khác thường và ông chứng minh ngược lại: “Chính phủ Việt Nam và bộ Ngoại Giao Việt nam liên tục công bố trước Liên Hiệp Quốc là Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam thì blogger Như Quỳnh cũng như những người khác kêu gọi phản đối Trung Quốc mà bị xem là có tội thì bộ Ngoại Giao Việt Nam có tội hay không?”
Chính phủ Việt Nam và bộ Ngoại Giao Việt nam liên tục công bố trước Liên Hiệp Quốc là Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam thì blogger Như Quỳnh cũng như những người khác kêu gọi phản đối Trung Quốc mà bị xem là có tội thì bộ Ngoại Giao Việt Nam có tội hay không?
Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Trong khi đó nhạc sĩ Tô Hải cay đắng hơn khi ông cho rằng Việt Nam không còn xem trọng luật pháp như bà phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao tuyên bố, ông đưa ra ý kiến: “Cái đất nước này là cái đất nước chẳng giống ai cả, muốn bắt ai thì bắt muốn giam giữ bao lâu cũng được.”
Bà Dương Thị Tân cũng cho biết tình trạng chồng bà trong nhà giam bị đối xử khá tồi tệ bà nói: “Chúng tôi ngồi ở cái phòng cách ly của họ và chỉ được nói qua một cái lổ nhỏ xíu bên cạnh ông Hải là một giám thị trại giam”.
Cư dân mạng trên các trang blog theo dõi sự kiện ông đang tiếp tục bị giam một cách chăm chú do vẫn tin rằng hành động của blogger Điếu Cày là yêu nước và phẩm chất ứng xử của ông trước mọi áp lực là đáng trân trọng. Từng là người lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Điếu Cày vẫn tiếp tục chiến đấu trong hoàn cảnh mới của đất nước với niềm tin mãnh liệt vào công lý.
Thế nhưng ngày nào người lính Điếu Cày còn trong bốn bức tường tối tăm thì ngày ấy xem ra công lý vẫn chưa soi rọi được hết những góc tối khó nhận dạng từ nhiều thế lực. Tính chất khác lạ trong việc phân biệt xét xử hiện nay của các tòa án tại Việt nam tùy theo thời tiết chính trị giữa quan hệ Việt Trung là mối lo lắng hàng đầu của dư luận.
Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia
Viện Nghiên cứu IDS tuyên bố giải thể để phản đối quyết định 97
Sau khi phân tích những điều mà IDS cho là “sai phạm nghiêm trọng” của Quyết định 97, trong đó có quy định cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ”, tuyên bố của IDS cho rằng IDS “không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mệnh đã xác định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của mình” cũng như “không thể làm tròn trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức của mình”.
Việc tuyên bố tự giải thể, theo IDS, là “để biểu thị thái độ dứt khoát của Viện đối với Quyết định 97”.
Các thành viên Hội đồng IDS đồng ký tên vào tuyên bố này cũng hứa hẹn “giữ quyền sử dụng tiếp các công cụ pháp lý để bảo vệ sự trong sáng của luật pháp”. Tuyên bố không nói rõ đó là biện pháp gì nhưng thông thường khi nói đến việc "sử dụng các công cụ pháp lý" là nói đến khả năng kiện ra tòa án và "bảo vệ sự trong sáng của luật pháp" tức là nhắm đến mục đích tòa phải tuyên hủy Quyết định 97 nói trên.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc
Tuyên bố của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS
Viện Nghiên cứu phát triển IDS nhận thấy Quyết định 97 có những sai phạm nghiêm trọng sau đây:
Một là: Điều 2 của Quyết định 97 không phù hợp với thực tế khách quan của cuộc sống.
Khoản 2, điều 2 trong quyết định này ghi: cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ.”
Như vậy khoản 2 của điều 2 bao gồm 2 điểm chính là
- các lĩnh vực được phép nghiên cứu quy định trong danh mục kèm theo Quyết định, và
- không được công bố công khai ý kiến phản biện với danh nghĩa của một tổ chức khoa học và công nghệ.
Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa biết đến, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những đòi hỏi mới, cần có các quyết sách mới và các giải pháp thích hợp. Vì vậy không thể bó khuôn mọi vấn đề được phép nghiên cứu trong cuộc sống vào một danh mục dù danh mục ấy có rộng đến đâu. Quy định như vậy sẽ bó tay các nhà khoa học, những người nghiên cứu độc lập, hạn chế sự đóng góp của họ vào việc xây dựng chính sách đổi mới và phát triển đất nước.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo nhằm khám phá các quy luật vận động trong tự nhiên và xã hội; từ đó tạo ra công nghệ mới, hoạch định chính sách phát triển và nâng cao dân trí để thúc đẩy xã hội tiến lên. Trong cuộc sống còn có những lĩnh vực, những vấn đề đã trở nên lỗi thời hoặc đã bị vượt qua. Thực tế này cũng là một đối tượng quan trọng của công việc nghiên cứu, nhất là trong tình hình một quốc gia phải ra sức phấn đấu khắc phục tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Trong một xã hội tiến bộ, công việc nghiên cứu với tính cách như vậy không thể đóng khung trong một danh mục gồm các lĩnh vực được quy định như đã nêu trong Quyết định 97.
Trong khi đó, công văn ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (thừa ủy quyền của Thủ tướng trả lời thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng) cho rằng cách quy định một danh mục các lĩnh vực cho phép cá nhân được thành lập tổ chức nghiên cứu là thông lệ ở nhiều nước trên thế giới, có nước quy định một danh mục cho phép, có nước quy định một danh mục cấm, hoặc cả hai. Chúng tôi đã tìm hiểu kỹ thì chưa thấy nước nào có quy định danh mục các lĩnh vực được phép nghiên cứu khoa học. Vì vậy cách trả lời trong công văn của Bộ Tư pháp là không trung thực, thiếu trách nhiệm. Cho đến nay, trên thế giới, việc phân loại các lĩnh vực khoa học là để thống kê, so sánh, không thể lấy đó làm căn cứ để quy định các lĩnh vực được phép nghiên cứu. Cách làm như Quyết định 97 sẽ bị dư luận chê cười, làm hại uy tín của lãnh đạo và của đất nước.
Ý kiến trong công văn của Bộ Tư pháp cho rằng Quyết định vẫn để mở, sẽ tiếp tục nghiên cứu bổ sung dần các lĩnh vực cho phép, là môt cách biện bạch gượng gạo, bởi vì “cho phép” thì không bao giờ đủ. Không ai có thể “cho phép” đời sống sẽ được phát triển đến đâu. Thực chất với Quyết định này, “cho phép” tức là cấm, và vùng cấm rộng gấp ngàn lần vùng được phép.
Về vấn đề phản biện:
Quá trình đi lên của đất nước chưa có con đường vạch sẵn, cuộc sống có vô vàn vấn đề thuộc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phản biện để có thể xử lý đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều ý kiến phản biện về đường lối chính sách bị cất hầu như không có thời hạn trong các “ngăn kéo” của các cơ quan chức năng hoặc của những người có thẩm quyền có liên quan. Có quá nhiều phản biện dưới mọi dạng như kiến nghị, đề nghị, thư, tài liệu nghiên cứu… không bao giờ được hồi âm.
Ví dụ nổi bật nhất là cải cách giáo dục – một vấn đề sống còn của sự phát triển đất nước, một yêu cầu bức xúc của xã hội đang được dư luận và giới nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm, phản biện công khai sôi nổi từ nhiều năm nay nhằm thực hiện những nghị quyết của Đại hội Đảng và các Hội nghị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục. Tuy vậy, sự phản biện này chưa được đánh giá và tiếp thu nghiêm túc.
Một ví dụ khác gần đây là vấn đề bô-xít, được coi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Sự phản biện công khai, quyết liệt vừa qua của rất nhiều nhà khoa học và các hiệp hội thuộc các lĩnh vực khác nhau đã góp phanà thúc đẩy việc ban hành quyết định ngày 24-04-2009 của Bộ Chính trị lưu ý những vấn đề phải quan tâm trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Tuy vậy, còn biết bao nhiêu phản biện quan trọng khác trong vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Trong tình hình nêu trên, cấm các tổ chức khoa học công nghệ do các cá nhân thành lập phản biện công khai như nêu trong Quyết định 97 thực chất là cấm phản biện xã hội, hệ quả sẽ khôn lường.
Khoản 2 trong điều 2 của Quyết định 97 không viết thành văn nhưng hàm ý để ngỏ khả năng: cá nhân được phép phản biện công khai với tư cách riêng của mình. Như vậy, sẽ không thể giải thích:
(a) Tại sao cá nhân thì được phản biện công khai, còn tổ chức, tức trí tuệ tập thể và liên ngành được tập họp để có thể có chất lượng cao hơn, thì lại không? Quy định chỉ cho phép cá nhân phản biện công khai tạo thuận tiện cho việc vô hiệu hóa hay hình sự hóa việc phản biện của cá nhân? Phải chăng quy định như vậy ngay từ đầu đã mang tính chất không khuyến khích phản biện, mà có hàm ý làm nản lòng thậm chí hăm dọa sự phản biện của cá nhân.
(b) Tại sao trong nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một văn bản pháp quy có tầm quan trọng như vậy lại có thể được thiết kế như một cái bẫy và để ngỏ khả năng cho việc vận dụng cái bẫy đó?
Hai là: Việc cấm phản biện công khai là phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ.
- Cấm như vậy là phản khoa học, bởi lẽ: Bất kể một phản biện nào nếu không chịu sự “sát hạch” công khai, minh bạch trong công luận, sẽ khó xác định phản biện ấy là đúng hay sai, độ tin cậy của nó, sự đóng góp hay tác hại nó có thể gây ra, khó lường được các khả năng sử dụng hoặc lợi dụng việc phản biện này.
- Cấm như vậy là phản tiến bộ, bởi lẽ: Người dân sẽ không biết đến các phản biện đã được đề xuất hay các vấn đề đang cần phải phản biện, càng không thể biết chất lượng và tác dụng của những phản biện ấy, không biết nó sẽ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, tiếp thu hay xử lý như thế nào. Phản biện và tiếp thu phản biện không công khai sẽ không thể tranh thủ được sự đóng góp xây dựng từ trí tuệ trong và ngoài nước, hạn chế khả năng sáng tạo tìm ra con đường tối ưu cho sự phát triển đất nước và vứt bỏ lợi thế của nước đi sau. Trên hết cả, cấm như vậy là cản trở việc nâng cao trí tuệ và bản lĩnh của người dân, cản trở vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Cấm như vậy chẳng khác nào biểu hiện chính sách ngu dân.
- Cấm như vậy là phản dân chủ, bởi lẽ: Nhân dân – người chủ của đất nước - sẽ thiếu những thông tin để tự mình tìm hiểu, đánh giá mọi vấn đề có liên quan của đất nước mà họ không thể không quan tâm. Cấm như vậy là tước bỏ hay làm giảm sút khả năng của nhân dân giám sát, kiểm tra, đánh giá hay đóng góp xây dựng, hình thành và nói lên các ý kiến của họ, tán thành hay bác bỏ một chủ trương nào đó; trên thực tế là cấm hay ngăn cản quyền của nhân dân tham gia vào công việc của đất nước. Cấm như vậy là ngược với tiêu chí Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Ba là: Quyết định 97 có nhiều điểm trái với đường lối của Đảng và vi phạm pháp luật của Nhà nước.
- Trước hết, đối với Hiến pháp, điều 2 trong Quyết định 97 vi phạm Điều 53 quy định công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; Điều 60 quy định công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng tác; Điều 69 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
- Đối với Luật Khoa học và công nghệ, điều 2 Quyết định 97 không phù hợp với tinh thần của Luật này coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, khuyến khích sự tham gia nghiên cứu của các tổ chức và cá nhân, Nhà nước đảm bảo và hỗ trợ sự thực hiện những kết quả nghiên cứu, khuyến khích các hội khoa học và công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ… v.v.
- Đặc biệt quan trọng là Quyết định 97 có nhiều điểm trái với tinh thần và nội dung Nghị quyết số 27 - NQ/T.Ư "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" mới được ban hành tháng 10-2008. Nghị quyết này nhấn mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Việc ban hành Quyết định 97 còn vi phạm khoản 2 và khoản 4 Điều 67 trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là đã bỏ qua trình tự bắt buộc phải công bố dự thảo quyết định trước ít nhất 60 ngày trước khi kí để bảo đảm sự tham gia ý kiến của dân. Trong công văn trả lời Viện IDS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp lập luận rằng: quyết định 97 được xây dựng và ban hành đúng luật vì toàn bộ các bước soạn thảo, lấy ý kiến, thẩm định dự thảo quyết định đã được hoàn tất trong năm 2008 khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi năm 2008) phải đến 1-1-2009 mới có hiệu lực. Sự biện bạch này không thể chấp nhận được. Quá trình soạn thảo, thẩm định bắt đầu từ bao giờ, kéo dài bao lâu, là việc nội bộ của các cơ quan hữu trách. Nhân dân, là những người chịu tác động của Quyết định, chỉ có thể biết ngày ban hành chính thức của Quyết định 97 là ngày 24-7-2009, hơn 7 tháng sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực. Như vậy rõ ràng là việc ban hành Quyết định 97 vi phạm luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì sao một quyết định quan trọng liên quan đến một lĩnh vực lớn được coi là quốc sách hàng đầu, lại được thực hiện môt cách vội vã và tùy tiện như vậy.
Có thể kết luận, Quyết định 97 nếu được thực hiện sẽ làm nặng nề thêm thực trạng thiếu công khai minh bạch rất nguy hại cho việc xây dựng và thực thi pháp luật, làm trầm trọng thêm tình trạng tụt hậu hiện nay của đất nước.
Tuy nhiên trong thời gian qua, tồn tại dai dẳng một số nhận xét sai lệch của cơ quan an ninh về Viện IDS, thậm chí cho rằng Viện nhận tiền của nước ngoài và có hoạt động chống đối Nhà nước…Ngày 16-01-2009 Viện IDS đã có thư gửi các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước nêu rõ quan điểm của Viện về những nhận định sai trái này, song tiếc rằng cho đến nay bức thư này của Viện chưa nhận được bất kể một hồi âm nào.
Ngay sau khi có Quyết định 97, Hội đồng Viện IDS đã thảo luận, phân tích những chỗ sai cả về thủ tục và nội dung của quyết định này. Với ý thức tôn trọng Chính phủ và Thủ tướng, và để biểu thị thiện chí của mình, Hội đồng Viện chúng tôi nhất trí chưa bày tỏ ý kiến công khai mà trước hết gửi thư ngày 6-8-2009 nêu rõ với Thủ tướng những chỗ sai của Quyết định 97 và kiến nghị cách giải quyết nhằm tránh các hệ quả bất lợi về nhiều mặt.
Sau khi gửi thư, đại diện của Hội đồng Viện được mấy vị lãnh đạo mời gặp, riêng Thủ tướng mời gặp hai lần; nhân dịp đó chúng tôi trình bày rõ thêm và trao đổi ý kiến thẳng thắn về những nhận xét và kiến nghị đã nêu trong thư.
Viện IDS đã kiên tâm chờ đợi. Ngày 11-9-2009, Chủ tịch Hội đồng Viện IDS được Bộ trưởng, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thừa ủy quyền của Thủ tướng mời đến VPCP và trao cho hai văn bản. Một là công văn số 3182/BTP-PLDSKT ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng trả lời Hội đồng Viện Nghiên cứu phát triển IDS về những điều nêu trong thư của Viện gửi Thủ tướng ngày 6-8-2009. Hai là công văn số 1618/TTg-PL ngày 10-9-2009 của Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP thừa ủy quyền của Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và công nghệ ra văn bản hướng dẫn thi hành Quyết định 97 và thu thập kiến để kiến nghị bổ sung danh mục ban hành theo quyết định này.
Hai công văn này cho thấy tất cả các kiến nghị của Viện IDS về Quyết định 97 đều không được chấp nhận.
Toàn viện IDS và từng thành viên đã hết sức đề cao tinh thần trách nhiệm công dân, ý thức kỷ luật và thiện chí, nhưng những cố gắng đó đã không được đáp ứng.
Trước tình hình như vậy, với một quyết định hạn chế đến mức vô lý quyền nghiên cứu của một tổ chức khoa học, Viện nghiên cứu phát triển IDS không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mệnh đã xác định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của mình. Chấp nhận hoạt động theo Quyết định 97, viện IDS và các thành viên sẽ không thể làm đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng về trí thức mới ban hành, đồng thời không thể làm tròn trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức của mình.
Ngày 14-09-2009, Hội đồng Viện IDS đã họp phiên toàn thể, quyết định tự giải thể để biểu thị thái độ dứt khoát của Viện đối với Quyết định 97. Quan điểm của Viện chúng tôi được trình bày trong tuyên bố này và được công bố kèm theo các tài liệu liên quan[1]. Chúng tôi cũng giữ quyền sử dụng tiếp các công cụ pháp lý để bảo vệ sự trong sáng của luật pháp.
Stt | Tên thành viên |
1 | Hoàng Tuỵ, Chủ tịch Hội đồng Viện IDS |
2 | Nguyễn Quang A, Viện trưởng |
3 | Phạm Chi Lan, Viện phó |
4 | Lê Đăng Doanh |
5 | Chu Hảo |
6 | Phạm Duy Hiển |
7 | Vũ Quốc Huy |
8 | Tương Lai |
9 | Phan Huy Lê |
10 | Nguyên Ngọc |
11 | Trần Đức Nguyên |
12 | Trần Việt Phương |
13 | Nguyễn Trung |
14 | Phan Đình Diệu |
15 | Vũ Kim Hạnh |
16 | Huỳnh Sơn Phước |
[1]Các tài liệu gửi kèm:
1. Thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng và các vị lãnh đạo
2. Công văn trả lời IDS số 3182/BTP-PLDSKT của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
3. Văn thư ngày 16-1-2009 của IDS gửi các vị lãnh đạo và Thứ trưởng Bộ Công An
- Thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng và các vị lãnh đạo
- Công văn trả lời IDS số 3182/BTP-PLDSKT của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
- Văn thư ngày 16-1-2009 của IDS gửi các vị lãnh đạo và Thứ trưởng Bộ Công An
Kỳ 3 : Hoàng Sa, tường trình sau 35 năm - Bài báo không được đăng trên Tuổi Trẻ
Kỳ 3 của loạt ký sự với nhan đề "Tử Chiến" dẫu không được đăng trên báo "lề phải", nhưng cũng đã được báo "lề trái" đăng lại . Đây là bài viết được nhà báo Bùi Thanh đăng lên blog mình vào ngày 19/01/2008, bài viết kể lại chi tiết những diễn biến xảy ra trong trận Hải chiến lịch sử đầy bi hùng.
Cũng xin nói thêm, trong một thông báo mới đây trên Blog cá nhân của mình, nhà báo Bùi Thanh cho biết nội dung loạt bài ký sự đăng năm 2008 "có nhiều thông tin chưa chính xác", và "tác giả Lữ Công Bảy đã sửa chửa, bổ sung lại".
Cũng trên Blog cá nhân, nhà báo Bùi Thanh thông báo thêm : "Loạt bài hoàn chỉnh này chỉ đăng trên báo Tuổi Trẻ." Nhưng có lẽ, người đọc sẽ chẳng có dịp đọc kỳ 3 hoàn chỉnh trên báo Tuổi Trẻ nữa.
Hòang Sa - tường trình 34 năm sau (kỳ 3)
(Hồi ức của nhân chứng Lữ Công Bảy trên chiến hạm HQ 4)
Ông Lữ Công Bảy
Kỳ 3: Tử chiến !
Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh vùng 1 duyên hải đã bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa . Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ 5, được tòan quyền hành động.
Đại tá Ngạc ra lệnh: chuyển bốn tàu theo đội hình hàng dọc (Formation - one) theo tín hiệu cờ của khối Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để giữ bí mật ; khi tín hiệu cờ chuyển sang Formation - two (đội hình hàng ngang) tất cả các khẩu đại bác hướng lên đảo; khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ chiếm lại đảo.
Hạm trưởng San bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng đại tá Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng. Đến khi hỏi ý kiến HQ 4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có 2 trung đội thì làm sao thành công được ”, rồi ông nói tiếp: “Tôi là quân nhân tôi chấp nhận hi sinh vì tổ quốc nhưng…”. Rồi ông cúp máy và ra lệnh “tất cả các khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch “
Đúng 10g20 , bốn chiến hạm HQ4, HQ5, HQ10, HQ16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng San ra lệnh “bắn” đồng thời ông cũng ra lệnh (lúc đó máy tàu đang ở vị trí stop) hai máy tiến Full (bỏ qua thông lệ tiến 1, tiến 2, tiến 3) hết tay lái sang phải... Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.
Chiến hạm HQ 4 chạy uốn lượn như con rắn, hết phải rồi hết trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác đầu tiên của địch. Thế rồi, các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Ria đang cố gắng theo dõi tàu địch qua màn hình radar. Thượng sĩ giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn ,xạ thủ đại liên 30 trên nóc ĐCH, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các nơi bị thương vọng lên ĐCH.
Tuy nhiên chiến hạm HQ 4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến . Đài quan sát trên nóc báo cáo có địch đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy 2 tàu địch thì từ mạn phải HQ 5 cắt đuôi HQ 4 phóng thẳng vào 2 tàu địch. Những khối cầu lửa từ mũi HQ 5 bắn ra (đại bác 127 ly) bay thẳng vào tàu địch. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ 4.
Không thấy một tàu địch nào, cũng không thấy HQ 16 và HQ 10 đâu cả. Ngay lúc đó HQ 5 cho biết ụ tháp đại bác 127 ly đã bị trúng đạn, 3 quân nhân tử thương 2 bị thương nặng. Liên lạc mãi với HQ 16 và HQ 10 không được.
Thật ra ngay từ loạt đạn đầu tiên HQ 10 đã bị loại khỏi vòng chiến vì HQ 10 nhỏ, cũ kỹ các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền 2 quả 100 ly từ tàu địch .Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi ,trinh sát giám lộ Vương Thương, báo cáo HQ 10 đã bị trúng đạn. Hạm trưởng Thà đứt đầu, hạm phó Trí trọng thương ngay bụng sĩ quan , hạ sĩ quan và thủy thủ trên ĐCH đều bị tử thương và bị thương.
Riêng Vương Thương bị mảnh đạn cắt ngang mông trái, máu ra nhiều nhưng vẫn còn tỉnh táo, báo tình hình về soái hạm HQ5. Anh cùng 21 quân nhân xuống được bè cứu sinh và sau 2 ngày đêm được một thương thuyền Hà Lan cứu đưa về Đà Nẵng. Nhưng Vương Thương đã chết trên bè vì máu ra quá nhiều . Anh ra đi trước ngày tổ chức làm đám cưới. Lẻ ra anh đã được về phép cưới vợ. Giấy phép đã cầm trên tay, nhưng hạm trưởng Ngụy Văn Thà động viên anh ở lại, vì anh đã quá rành vùng quần đảo Hoàng Sa. Anh đã theo tàu ra Hoàng Sa như ăn cơm bữa, hải đảo xa xôi nào cũng lưu dấu bước chân anh. Nay vì tổ quốc , anh đã thanh thản ra đi, bỏ lại người vợ chưa cưới nơi cố đô Huế.
HQ 4 và HQ 5 quay đầu về hướng Nam. Sau đó 1 giờ không còn thấy HQ 5 ở đâu. HQ 5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục, nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển trở nên HQ 4 lẻ loi một mình. Hạm trưởng San vẻ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.
Bây giờ tôi mới rời được ĐCH. Trên hành lang xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một sự kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng… mấy ngày liền không có thời gian thu dọn. Hơn 130 thủy thủ đoàn bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương thực khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn. Trong phòng y tế, các binh sĩ người nhái bị thương cũng nằm la liệt. Một binh sĩ bị đạn bắn thủng cằm từ trái qua phải, mặt sưng vù. Anh ngồi bất động, máu không còn chảy ra nữa, nhưng khóe miệng những vệt máu lẫn nước bọt vẫn rỉ ra. HS Danh nằm thoi thóp trên băng ca, ngực anh đầy bông băng nhuốm máu. Tôi rờ lên trán anh nóng hổi, hỏi anh có khỏe không? Anh mở mắt rồi gật đầu, nhưng lịm dần rồi chết.
Khoảng 16 giờ 30 tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt, thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo :“Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”.
Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động , không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này .
Thế rồi, giữa khỏanh khắc yên lặng kỳ lạ và căng thẳng đó, một câu nói được thốt ra, tôi còn nhớ mãi: “Dù sao đánh nhau với Trung Quốc nếu có chết cũng vinh quang hơn… ”.